Xu Hướng 12/2023 # Sự Thù Thắng Của Pháp Hội @ Bạch Dương Kì Blog :: 隨意窩 Xuite日誌 # Top 18 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Sự Thù Thắng Của Pháp Hội @ Bạch Dương Kì Blog :: 隨意窩 Xuite日誌 được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Getset.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

( ( ( ( Bức tranh này là do một vị họa sĩ người Indonesia có mắt âm dương vẽ lại xuống cảnh tượng hư không của lúc mở pháp hội tại Quang Pháp Đàn của Indonesia . Bốn phía xung quanh pháp hội đều là phật quang phổ chiếu, có Tứ Đại Pháp Luật Chủ gồm Quan Thánh Đế Quân ngay chính giữa phía trước ), ngay chính giữa phía sau ), bên phải ), bên trái ) dẫn theo các thiên binh thiên tướng hộ pháp.

Phía trên có Chư Thiên Tiên Phật lâm đàn, trình tường. Phía bên trái có , Quán Thế Âm Bồ Tát giáng nước cam lồ, Địa Tạng Cổ Phật, Di Lặc Cổ Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, Đạt Ma Tổ Sư, Giêsu Cơ Đốc ngũ giáo thánh nhân .

Sư Tôn Sư Mẫu thì từ trên đài sen ở phía trên tay phải đáp xuống, đến phía bên ngoài trước phật đường, quỳ xuống hướng về vô số những oan thân trái chủ của các lớp viên để khấu đầu cầu tình ( các oan thân trái chủ là rất nhiều những quỷ hồn vây xung quanh bên trái bên phải và phía trước phật đường ) , Sư tôn sư mẫu khẩn cầu họ tạm thời chớ đòi các món nghiệp nợ , để cho các lớp viên có thể yên tâm học đạo; phía sau phật đường thì là rất nhiều các đời tổ tiên của các lớp viên đang nghe giảng.

Vị đạo thân người indonesia này vốn chẳng hiểu biết văn hóa trung hoa mà rốt cuộc lại có thể vẽ phong cách ăn mặc, trang sức của các vị tiên phật cổ đại của trung quốc sinh động như thật, quả thật khiến cho người ta chẳng thể nghĩ bàn.

Cảnh tượng vĩ đại của pháp hội đã có quá nhiều người tận mắt nhìn thấy; có một số người là bẩm sinh có mắt âm dương nhìn thấy, có một số người là sau khi trải qua tu luyện có mắt âm dương nhìn thấy, có một số người là lúc linh tánh xuất du nhìn thấy, có một số người là do lúc Tiên Phật dẫn linh tánh họ đi du ngoạn nhìn thấy. Từ những quốc gia khác nhau, địa điểm khác nhau, những người có tín ngưỡng khác nhau, ngôn ngữ khác nhau…cảnh tượng vĩ đại mà họ đã nhìn thấy đều đại thể là giống nhau, điều đó đã chứng minh sự tồn tại của linh tánh và sự tôn quý của việc cầu đạo. Trên đời chẳng có chuyện kỳ lạ gì là không có, chẳng phải chỉ có mắt nhìn thấy mới là thật. Khi mắt chúng ta chẳng thể nhìn thấy thì những sự việc của vũ trụ vẫn cứ tồn tại như vậy , duy chỉ có dùng ” tâm ” thật tốt mà đi thể hội, từ từ mà đi tìm ra chứng cứ thì cũng có thể sinh ra lòng tin chẳng thể sánh được.

Nguyên Do của Pháp Hội

1. Ví như mới thi đậu vào một trường nào đó, nhưng đối với trường này ( đạo ) chưa hiểu rõ, còn pháp hội thì ví như việc huấn luyện các sinh viên mới, huấn luyện sinh viên mới hai, ba ngày để họ có nhận thức rõ ràng hơn đối với trường học ( đạo ).

2. Cái gì là pháp hội ? Pháp : tâm pháp ; Hội : nhân duyên tụ hội

3. Ví như Kinh Kim Cang là do Phật Đà đã nói ra vào pháp hội lần thứ 9 trong bốn nơi 16 hội thời Bát Nhã.

( a ) Pháp bình đẳng : cần phải có 3 nhân tố chín muồi :

1. Địa ( nơi chốn ) 2. Nhân ( con người ) 3. Thời ( thời cơ )

1. Địa ( nơi chốn ) 2. Nhân ( con người ) 3. Thời ( thời cơ ) 4. Sự

: phải có phật đường, đạo tràng trang nghiêm

: Phải có thính chúng đến nghe pháp

Thính chúng cần phải có trí tuệ nghe pháp

( Phải có Điểm truyền sư, giảng sư thuyết pháp, có các nhân viên bàn sự. )

: Cần phải có cơ duyên trùng hợp ngẫu nhiên, chín muồi và tiên phật trợ đạo.

( Thời đã đến những năm tam kỳ mạt kiếp, lòng người chẳng còn tốt như người xưa, đạo đức luân vong, ơn trên từ bi khai ân, đại khai phổ độ, mở khoa tuyển lớn, Minh Sư giáng thế, cứu độ những người hữu duyên rời khổ đắc lạc. )

: Phật có nói rằng : sự chuẩn bị của pháp vô thượng cần phải phối hợp những đệ tử có trí tuệ, căn cơ sâu thì mới nói, nếu không thì không nói và chờ đợi cơ duyên.

Các đệ tử cần phải ngộ trên mức của pháp bình đẳng thì mới có ” pháp bí mật ” chẳng thể nói , do vậy cần phải âm thầm quan sát nhất cử nhất động của phật và lưu ý những hiển thị của thật tướng của những cử chỉ ấy.

Khi xưa Phật Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp 49 năm mới mở được 16 lần pháp hội, có thể thấy rằng việc mở pháp hội chẳng dễ.

Vì sao mở pháp hội ? Ý nghĩa của pháp hội ?

1. Là con đường từ mê chuyển sang ngộ : Mỗi một vị đạo thân vừa mới cầu đạo, tuy rằng có nghe giảng sư giảng giải qua về đạo nghĩa, tam bảo, nhưng do quá trình cầu đạo bị trở ngại về thời gian, những đạo lý hấp thu được rốt cuộc cũng chỉ có giới hạn. Do vậy, tham gia pháp hội là một cơ hội để vận dụng thời gian ngắn nhất để gặt hái được kiến thức đạo học tương đối nhiều

Khai phát then chốt sự chuyển biến của việc học, tu, bàn đạo

Cầu đạo giống như người nông dân cày ruộng hạ chủng . Nếu chẳng thêm quá trình nhổ trừ cỏ, bón phân, chăm sóc là không cách nào nở ra kết quả tốt đẹp được. Cùng lẽ đó, sau khi cầu đạo nếu không tiếp tục học tu đạo, cũng giống như người nông dân hạ chủng rồi mà chẳng chăm sóc, vậy thì thật đáng tiếc. Cho nên, cầu đạo, tham gia pháp hội là sự hiểu biết đối với đạo nghĩa, để khải phát lòng tin học tu đạo, hiểu rõ đại đạo thù thắng và cũng có cơ hội tham gia bàn đạo hành công liễu nguyện .

3. Khẳng định bản thân, hiểu rõ ý nghĩa thật sự của cuộc đời con người .

Tham gia pháp hội mở ra cho chúng ta một cánh cửa để giải ra vấn đề. Pháp hội có những lời từ bi của tiên phật, lời khuyên dạy khích lệ ra sức nỗ lực thực hành đạo hiếu của Tiền Nhân, nhân sanh chân đế của Điểm Truyền Sư và Các giảng sư, những ấn chứng của kinh điển …tất cả đều là tập hợp tinh thần sức lực, thời gian bỏ vào của mỗi một vị Tiền Hiền, những lời nói phát ra từ những cảm xúc tận đáy lòng về cuộc đời dụng tâm tu đạo bàn đạo, những lời nói hay đẹp mang đậm kinh nghiệm trí tuệ, khai phóng ra ánh sáng và nhiệt lượng của sinh mệnh, là bộ từ điển tham khảo để các đạo thân tuyển chọn những ưu điểm của người khác bù vào những khuyết điểm của mình .

4. Hiển hiện rõ đạo thật, lý thật, thiên mệnh thật :

Nay Đạo đại khai phổ độ, Lão Tiền Nhân và Tiền Nhân tu bàn đạo gần 50 năm, những pháp hội đã tổ chức ở các đạo trường trong và ngoài nước đã hơn ngàn đợt trở lên, những lớp viên đã tham dự qua pháp hội đạt đến trên triệu người , Thánh sự này sao có thể là giả được. Cảnh vĩ đại này tuyệt đối chẳng phải là chỉ có mỗi sức người làm thành, còn có sự tôn quý của thiên mệnh, sự từ mẫn của ơn trên, lại cộng thêm sự từ bi của thầy là thật, đức hạnh của Lão Tiền Nhân là thật, tâm nguyện mà Tiền Nhân đã phát là thật , cộng thành đại sự, đấy đều có thể chứng minh đạo thật, lý thật, thiên mệnh thật.

Chúng ta cho nên muốn thật sự học đạo, tu đạo thì nhất định phải tham gia pháp hội, hiểu rõ chân đế ( đắc đạo rồi, nếu chẳng thật sự tu đạo học đạo, chẳng phải là vào núi báu mà trở về tay không hay sao ? ý nghĩa thật sự ) của đạo mới có thể giúp bản thân mình làm thế nào học đạo, tiến một bước lập chí lập phẩm để báo đáp Thiên Ân Sư Đức.

1.Hiểu rõ nhân sanh chân đế ( ý nghĩa thật sự của đời người )

3.Nhờ vào việc nghe giảng giải và lực lượng của tiên phật để mở ra lòng tin và tâm bồ đề.

4. Phát lại tâm nguyện, dựa vào nguyện lực để vượt ra khỏi nghiệp lực của bản thân mình 。

5. Tận đại đại hiếu, khiến cho Tổ Tiên cũng được triêm quang, có thể cùng đến nghe kinh thuyết pháp .

7.Pháp hội là do khổ tâm của Tiền Nhân để thành toàn đạo thân mà thiết lập.

Pháp hội mỗi một lần mở ra thì kinh thiên động địa, trời và người cùng bàn ( làm ), cơ hội trong một đời chỉ dự một lần, cơ hội khó mà có được.

Lúc Tiền Nhân khai hoang đạo trường Vân Lâm, đã từng ở trong một pháp hội nọ, có một vị lớp viên khôn đạo khi nghe Tiền Nhân giảng về ” Đạo Hiếu ” , nghĩ đến đủ thứ các tình cảnh cha của cô ấy lúc còn sống cưng yêu cô ấy, gần gũi ấm áp vô hạn, nhưng nay lại là người trời vĩnh viễn cách biệt. ” Cây muốn tịnh nhưng gió chẳng ngừng, con muốn nuôi nhưng song thân không đợi “, nhất thời sự bi thương tràn về, buồn bã vạn phần. Lúc này, đột nhiên ở trong phật điện, cô nhìn thấy cha xuất hiện ở trước mắt cô, trong tay cầm một đóa sen trắng, vẻ ngoài an tường quỳ ở trước phật điện lắng nghe bài giảng, thỉnh thoảng cũng quay đầu lại cười với cô một cái . Lúc ban đầu cô rất kinh ngạc, tưởng rằng là tự mình đã hoa mắt nhìn sai rồi. Chính là vào lúc này cô nghe thấy cha cô nói với cô rằng : ” chớ có kinh ngạc, cha quả thật là ở đây ! Cha chính là đã triêm quang của con, mới có thể đến hiện trường pháp hội nghe bài. Tuy rằng con thì là ngồi, cha thì là quỳ, thế nhưng đối với những quỷ hồn chúng tôi mà nói, đấy đã là ân huệ lớn nhất rồi. Con chẳng cần lo cho ta, con phải an tâm mà nghe lớp ” . Cô nhìn hình bóng sau lưng cha, ông đang quỳ nơi đó nghe lớp một cách rất an tường, nhìn rồi cứ mãi rơi nước mắt. Sau khi nghe bài giảng của Đại Cô xong, có dẫn bảo sư và nhân viên phục vụ đến hỏi thăm cô rằng : ” cô có chỗ nào không khỏe vậy ? ” , cô mới đem cảnh tượng lúc nãy kể lại cho mọi người nghe. Có một vị đạo thân thâm niên nói với mọi người rằng : ” Lời của tiên phật nói quả chẳng sai ! Con cháu tại thế nếu có thể đến dự pháp hội, tổ tiên của họ sẽ được triêm quang, có thể đến chỗ của Địa Tạng Cổ Phật lãnh một đóa sen trắng, quỳ ở hiện trường pháp hội mà nghe lớp. Từ sự hiện thân thuyết pháp của cô gái này, càng ấn chứng thêm sự bảo quý của đại đạo, đấy cũng là cơ hội tốt để phận làm con chúng ta tận đại hiếu ” . Sau đó cô chẳng còn tận mắt nhìn thấy dung mạo của cha lần nữa, thế nhưng cô tin rằng cha chính là vì để ấn chứng cho sự tôn quý của đạo nên mới hiện thân cho cô xem.

Đã từng trong một lần pháp hội nọ, có một gia đình cả nhà đều đến tham dự, thế nhưng mỗi người trong số họ đều chẳng để tâm, chẳng tập trung chú ý đến, chẳng dụng tâm nghe lớp . Pháp hội ngày thứ nhất có nghe mà chẳng hiểu , trôi qua một cách mơ mơ màng màng. Sau khi pháp hội kết thúc trở về nhà, đứa con gái nhỏ nhất của gia đình này nói với các chị gái rằng : ” các chị à, các chị thật là có lỗi với ông nội ! Em nhìn thấy ông nội của gia đình nhà người ta thì hoa sen trong tay nở càng lúc càng to, càng lúc càng sum suê tươi tốt, còn hoa sen mà ông nội của chúng ta cầm thì lại càng lúc càng khô héo. Ông lại còn ở đó tự oán tự than rằng : ” con cháu của mình cớ sao lại chẳng ra hồn, chẳng nỗ lực cầu tiến gì ! “. Các chị à ! các chị quả thật là không nên rồi ! ” . Các chị vẫn chưa tin những gì mà em gái đã nhìn thấy nghe thấy, mãi cho đến ngày thứ hai đến pháp hội hỏi thăm mới biết quả thật là có sự giảng giải về hoa sen trắng, do đó họ bèn chẳng dám chểnh mảng, chỉ còn cách dụng tâm mà nghe bài giảng. Sau đó các chị lại hỏi cô em gái rằng : ” em nhìn thấy ông nội bây giờ thế nào rồi ? ” . Em gái trả lời rằng : ” trên gương mặt của ông nội rốt cuộc cũng đã có sự mỉm cười rồi, thế nhưng đóa sen trắng của ông vẫn không sum suê tươi tốt, sáng sủa bằng đóa sen trắng của ông cụ quỳ bên cạnh ông ” . Sau đó những người của cái gia đình này càng phát tâm, vào lúc pháp hội lần sau, chẳng những cả nhà đều đến, vả lại còn ngay đến những bạn thân hàng xóm bên cạnh nhà cũng đều dẫn đi theo, em gái nói : ” lần này đóa sen trắng của ông nội trở nên rất sum suê tươi tốt, rất sáng rồi ! ” .

Ấn Chứng về sự thù thắng của việc tham dự pháp hội – Tổ Tiên triêm quang

Vốn dĩ muốn quay về lại bên trong phật điện của lầu 5, nhưng lại bị Pháp Luật Chủ cản lại ở ngoài cửa, và khóc lóc gây ồn ào ở ban công bên ngoài phật điện . Điểm Truyền Sư, Giảng Sư và các vị bàn sự nhân viên nhìn thấy bèn đi ra ngoài quan sát. Lớp viên ( vẫn còn đang bị vong linh của mẹ cô nhập vào người ) dùng tiếng việt nói một cách buồn bã đau lòng rằng : ” tôi đã vất vả nuôi dưỡng đứa con gái này, thật chẳng dễ dàng gì để cho con bé đi Đài Loan làm việc, chính là vì để cải thiện cái gia đình nghèo khổ vất vả này. Sáu năm trước người mẹ già như tôi đây đã lìa khỏi thế gian, đọa vào địa ngục chịu khổ chịu nạn, nay thật chẳng dễ gì con gái có cơ hội đến dự pháp hội, để cho tôi cũng có cơ hội lên được phật điện thù thắng trang nghiêm này mà được triêm phật lực gia trì của thiên ân sư đức, để tôi có thể tạm thời thoát lìa đau khổ. Thế nhưng cũng bởi vì con gái nhất thời muốn rời khỏi phật đường, khiến tôi nghĩ đến việc lại phải quay về lại địa ngục đau khổ, bèn vô cùng buồn bã đau lòng . Xin các vị Tiền Hiền hãy giúp đỡ con gái tôi có thể dự xong hết pháp hội “.

Điểm Truyền Sư và các giảng sư thông qua sự phiên dịch của các vị đạo thân việt nam, mời vong linh sau khi rời khỏi thân xác đứa con gái bèn sẽ giúp đỡ dẫn dắt cô ấy có thể dự pháp hội một cách thuận lợi. Vào tiết cuối cùng nhất của ngày hôm đó ( Hiếu Đạo ) khi phát toàn bộ đoạn phim ra cho các vị đạo thân Việt Nam xem, Điểm Truyền Sư nhân cơ hội này đem sự tích hiển hóa này nói lại cho lớp viên nghe, dưới bục bèn vang lên những tiếng khóc nức nở, cảm nhận được sự thù thắng của pháp hội. Cuối cùng Điểm Truyền Sư cũng khích lệ các vị đạo thân, mời các vị tuần tới nhất định còn phải quay lại để bế ban lập nguyện ( bởi vì phần lớn các đạo thân việt nam ngày thứ bảy vẫn phải đi làm, kì nghỉ một lần khó mà sắp hai ngày, để tiện lợi cho họ mà dùng hai ngày chủ nhật của hai tuần lễ để mở xong pháp hội ).

Sự Thù Thắng Của Pháp Hội

( ( ( ( Bức tranh này là do một vị họa sĩ người Indonesia có mắt âm dương vẽ lại xuống cảnh tượng hư không của lúc mở pháp hội tại Quang Pháp Đàn của Indonesia . Bốn phía xung quanh pháp hội đều là phật quang phổ chiếu, có Tứ Đại Pháp Luật Chủ gồm Quan Thánh Đế Quân ngay chính giữa phía trước ), ngay chính giữa phía sau ), bên phải ), bên trái ) dẫn theo các thiên binh thiên tướng hộ pháp.

Phía trên có Chư Thiên Tiên Phật lâm đàn, trình tường. Phía bên trái có , Quán Thế Âm Bồ Tát giáng nước cam lồ, Địa Tạng Cổ Phật, Di Lặc Cổ Phật, Thích Ca Mâu Ni Phật, Đạt Ma Tổ Sư, Giêsu Cơ Đốc ngũ giáo thánh nhân .

Sư Tôn Sư Mẫu thì từ trên đài sen ở phía trên tay phải đáp xuống, đến phía bên ngoài trước phật đường, quỳ xuống hướng về vô số những oan thân trái chủ của các lớp viên để khấu đầu cầu tình ( các oan thân trái chủ là rất nhiều những quỷ hồn vây xung quanh bên trái bên phải và phía trước phật đường ) , Sư tôn sư mẫu khẩn cầu họ tạm thời chớ đòi các món nghiệp nợ , để cho các lớp viên có thể yên tâm học đạo; phía sau phật đường thì là rất nhiều các đời tổ tiên của các lớp viên đang nghe giảng.

Vị đạo thân người indonesia này vốn chẳng hiểu biết văn hóa trung hoa mà rốt cuộc lại có thể vẽ phong cách ăn mặc, trang sức của các vị tiên phật cổ đại của trung quốc sinh động như thật, quả thật khiến cho người ta chẳng thể nghĩ bàn.

Cảnh tượng vĩ đại của pháp hội đã có quá nhiều người tận mắt nhìn thấy; có một số người là bẩm sinh có mắt âm dương nhìn thấy, có một số người là sau khi trải qua tu luyện có mắt âm dương nhìn thấy, có một số người là lúc linh tánh xuất du nhìn thấy, có một số người là do lúc Tiên Phật dẫn linh tánh họ đi du ngoạn nhìn thấy. Từ những quốc gia khác nhau, địa điểm khác nhau, những người có tín ngưỡng khác nhau, ngôn ngữ khác nhau…cảnh tượng vĩ đại mà họ đã nhìn thấy đều đại thể là giống nhau, điều đó đã chứng minh sự tồn tại của linh tánh và sự tôn quý của việc cầu đạo. Trên đời chẳng có chuyện kỳ lạ gì là không có, chẳng phải chỉ có mắt nhìn thấy mới là thật. Khi mắt chúng ta chẳng thể nhìn thấy thì những sự việc của vũ trụ vẫn cứ tồn tại như vậy , duy chỉ có dùng ” tâm ” thật tốt mà đi thể hội, từ từ mà đi tìm ra chứng cứ thì cũng có thể sinh ra lòng tin chẳng thể sánh được.

Nguyên Do của Pháp Hội

1. Ví như mới thi đậu vào một trường nào đó, nhưng đối với trường này ( đạo ) chưa hiểu rõ, còn pháp hội thì ví như việc huấn luyện các sinh viên mới, huấn luyện sinh viên mới hai, ba ngày để họ có nhận thức rõ ràng hơn đối với trường học ( đạo ).

2. Cái gì là pháp hội ? Pháp : tâm pháp ; Hội : nhân duyên tụ hội

3. Ví như Kinh Kim Cang là do Phật Đà đã nói ra vào pháp hội lần thứ 9 trong bốn nơi 16 hội thời Bát Nhã.

( a ) Pháp bình đẳng : cần phải có 3 nhân tố chín muồi :

1. Địa ( nơi chốn ) 2. Nhân ( con người ) 3. Thời ( thời cơ )

1. Địa ( nơi chốn ) 2. Nhân ( con người ) 3. Thời ( thời cơ ) 4. Sự

: phải có phật đường, đạo tràng trang nghiêm

: Phải có thính chúng đến nghe pháp

Thính chúng cần phải có trí tuệ nghe pháp

( Phải có Điểm truyền sư, giảng sư thuyết pháp, có các nhân viên bàn sự. )

: Cần phải có cơ duyên trùng hợp ngẫu nhiên, chín muồi và tiên phật trợ đạo.

( Thời đã đến những năm tam kỳ mạt kiếp, lòng người chẳng còn tốt như người xưa, đạo đức luân vong, ơn trên từ bi khai ân, đại khai phổ độ, mở khoa tuyển lớn, Minh Sư giáng thế, cứu độ những người hữu duyên rời khổ đắc lạc. )

: Phật có nói rằng : sự chuẩn bị của pháp vô thượng cần phải phối hợp những đệ tử có trí tuệ, căn cơ sâu thì mới nói, nếu không thì không nói và chờ đợi cơ duyên.

Các đệ tử cần phải ngộ trên mức của pháp bình đẳng thì mới có ” pháp bí mật ” chẳng thể nói , do vậy cần phải âm thầm quan sát nhất cử nhất động của phật và lưu ý những hiển thị của thật tướng của những cử chỉ ấy.

Khi xưa Phật Thế Tôn giảng kinh thuyết pháp 49 năm mới mở được 16 lần pháp hội, có thể thấy rằng việc mở pháp hội chẳng dễ.

Vì sao mở pháp hội ? Ý nghĩa của pháp hội ?

1. Là con đường từ mê chuyển sang ngộ : Mỗi một vị đạo thân vừa mới cầu đạo, tuy rằng có nghe giảng sư giảng giải qua về đạo nghĩa, tam bảo, nhưng do quá trình cầu đạo bị trở ngại về thời gian, những đạo lý hấp thu được rốt cuộc cũng chỉ có giới hạn. Do vậy, tham gia pháp hội là một cơ hội để vận dụng thời gian ngắn nhất để gặt hái được kiến thức đạo học tương đối nhiều

Khai phát then chốt sự chuyển biến của việc học, tu, bàn đạo

Cầu đạo giống như người nông dân cày ruộng hạ chủng . Nếu chẳng thêm quá trình nhổ trừ cỏ, bón phân, chăm sóc là không cách nào nở ra kết quả tốt đẹp được. Cùng lẽ đó, sau khi cầu đạo nếu không tiếp tục học tu đạo, cũng giống như người nông dân hạ chủng rồi mà chẳng chăm sóc, vậy thì thật đáng tiếc. Cho nên, cầu đạo, tham gia pháp hội là sự hiểu biết đối với đạo nghĩa, để khải phát lòng tin học tu đạo, hiểu rõ đại đạo thù thắng và cũng có cơ hội tham gia bàn đạo hành công liễu nguyện .

3. Khẳng định bản thân, hiểu rõ ý nghĩa thật sự của cuộc đời con người .

Tham gia pháp hội mở ra cho chúng ta một cánh cửa để giải ra vấn đề. Pháp hội có những lời từ bi của tiên phật, lời khuyên dạy khích lệ ra sức nỗ lực thực hành đạo hiếu của Tiền Nhân, nhân sanh chân đế của Điểm Truyền Sư và Các giảng sư, những ấn chứng của kinh điển …tất cả đều là tập hợp tinh thần sức lực, thời gian bỏ vào của mỗi một vị Tiền Hiền, những lời nói phát ra từ những cảm xúc tận đáy lòng về cuộc đời dụng tâm tu đạo bàn đạo, những lời nói hay đẹp mang đậm kinh nghiệm trí tuệ, khai phóng ra ánh sáng và nhiệt lượng của sinh mệnh, là bộ từ điển tham khảo để các đạo thân tuyển chọn những ưu điểm của người khác bù vào những khuyết điểm của mình .

4. Hiển hiện rõ đạo thật, lý thật, thiên mệnh thật :

Nay Đạo đại khai phổ độ, Lão Tiền Nhân và Tiền Nhân tu bàn đạo gần 50 năm, những pháp hội đã tổ chức ở các đạo trường trong và ngoài nước đã hơn ngàn đợt trở lên, những lớp viên đã tham dự qua pháp hội đạt đến trên triệu người , Thánh sự này sao có thể là giả được. Cảnh vĩ đại này tuyệt đối chẳng phải là chỉ có mỗi sức người làm thành, còn có sự tôn quý của thiên mệnh, sự từ mẫn của ơn trên, lại cộng thêm sự từ bi của thầy là thật, đức hạnh của Lão Tiền Nhân là thật, tâm nguyện mà Tiền Nhân đã phát là thật , cộng thành đại sự, đấy đều có thể chứng minh đạo thật, lý thật, thiên mệnh thật.

Chúng ta cho nên muốn thật sự học đạo, tu đạo thì nhất định phải tham gia pháp hội, hiểu rõ chân đế ( đắc đạo rồi, nếu chẳng thật sự tu đạo học đạo, chẳng phải là vào núi báu mà trở về tay không hay sao ? ý nghĩa thật sự ) của đạo mới có thể giúp bản thân mình làm thế nào học đạo, tiến một bước lập chí lập phẩm để báo đáp Thiên Ân Sư Đức.

1.Hiểu rõ nhân sanh chân đế ( ý nghĩa thật sự của đời người )

3.Nhờ vào việc nghe giảng giải và lực lượng của tiên phật để mở ra lòng tin và tâm bồ đề.

4. Phát lại tâm nguyện, dựa vào nguyện lực để vượt ra khỏi nghiệp lực của bản thân mình 。

5. Tận đại đại hiếu, khiến cho Tổ Tiên cũng được triêm quang, có thể cùng đến nghe kinh thuyết pháp .

7.Pháp hội là do khổ tâm của Tiền Nhân để thành toàn đạo thân mà thiết lập.

Pháp hội mỗi một lần mở ra thì kinh thiên động địa, trời và người cùng bàn ( làm ), cơ hội trong một đời chỉ dự một lần, cơ hội khó mà có được.

Lúc Tiền Nhân khai hoang đạo trường Vân Lâm, đã từng ở trong một pháp hội nọ, có một vị lớp viên khôn đạo khi nghe Tiền Nhân giảng về ” Đạo Hiếu ” , nghĩ đến đủ thứ các tình cảnh cha của cô ấy lúc còn sống cưng yêu cô ấy, gần gũi ấm áp vô hạn, nhưng nay lại là người trời vĩnh viễn cách biệt. ” Cây muốn tịnh nhưng gió chẳng ngừng, con muốn nuôi nhưng song thân không đợi “, nhất thời sự bi thương tràn về, buồn bã vạn phần. Lúc này, đột nhiên ở trong phật điện, cô nhìn thấy cha xuất hiện ở trước mắt cô, trong tay cầm một đóa sen trắng, vẻ ngoài an tường quỳ ở trước phật điện lắng nghe bài giảng, thỉnh thoảng cũng quay đầu lại cười với cô một cái . Lúc ban đầu cô rất kinh ngạc, tưởng rằng là tự mình đã hoa mắt nhìn sai rồi. Chính là vào lúc này cô nghe thấy cha cô nói với cô rằng : ” chớ có kinh ngạc, cha quả thật là ở đây ! Cha chính là đã triêm quang của con, mới có thể đến hiện trường pháp hội nghe bài. Tuy rằng con thì là ngồi, cha thì là quỳ, thế nhưng đối với những quỷ hồn chúng tôi mà nói, đấy đã là ân huệ lớn nhất rồi. Con chẳng cần lo cho ta, con phải an tâm mà nghe lớp ” . Cô nhìn hình bóng sau lưng cha, ông đang quỳ nơi đó nghe lớp một cách rất an tường, nhìn rồi cứ mãi rơi nước mắt. Sau khi nghe bài giảng của Đại Cô xong, có dẫn bảo sư và nhân viên phục vụ đến hỏi thăm cô rằng : ” cô có chỗ nào không khỏe vậy ? ” , cô mới đem cảnh tượng lúc nãy kể lại cho mọi người nghe. Có một vị đạo thân thâm niên nói với mọi người rằng : ” Lời của tiên phật nói quả chẳng sai ! Con cháu tại thế nếu có thể đến dự pháp hội, tổ tiên của họ sẽ được triêm quang, có thể đến chỗ của Địa Tạng Cổ Phật lãnh một đóa sen trắng, quỳ ở hiện trường pháp hội mà nghe lớp. Từ sự hiện thân thuyết pháp của cô gái này, càng ấn chứng thêm sự bảo quý của đại đạo, đấy cũng là cơ hội tốt để phận làm con chúng ta tận đại hiếu ” . Sau đó cô chẳng còn tận mắt nhìn thấy dung mạo của cha lần nữa, thế nhưng cô tin rằng cha chính là vì để ấn chứng cho sự tôn quý của đạo nên mới hiện thân cho cô xem.

Đã từng trong một lần pháp hội nọ, có một gia đình cả nhà đều đến tham dự, thế nhưng mỗi người trong số họ đều chẳng để tâm, chẳng tập trung chú ý đến, chẳng dụng tâm nghe lớp . Pháp hội ngày thứ nhất có nghe mà chẳng hiểu , trôi qua một cách mơ mơ màng màng. Sau khi pháp hội kết thúc trở về nhà, đứa con gái nhỏ nhất của gia đình này nói với các chị gái rằng : ” các chị à, các chị thật là có lỗi với ông nội ! Em nhìn thấy ông nội của gia đình nhà người ta thì hoa sen trong tay nở càng lúc càng to, càng lúc càng sum suê tươi tốt, còn hoa sen mà ông nội của chúng ta cầm thì lại càng lúc càng khô héo. Ông lại còn ở đó tự oán tự than rằng : ” con cháu của mình cớ sao lại chẳng ra hồn, chẳng nỗ lực cầu tiến gì ! “. Các chị à ! các chị quả thật là không nên rồi ! ” . Các chị vẫn chưa tin những gì mà em gái đã nhìn thấy nghe thấy, mãi cho đến ngày thứ hai đến pháp hội hỏi thăm mới biết quả thật là có sự giảng giải về hoa sen trắng, do đó họ bèn chẳng dám chểnh mảng, chỉ còn cách dụng tâm mà nghe bài giảng. Sau đó các chị lại hỏi cô em gái rằng : ” em nhìn thấy ông nội bây giờ thế nào rồi ? ” . Em gái trả lời rằng : ” trên gương mặt của ông nội rốt cuộc cũng đã có sự mỉm cười rồi, thế nhưng đóa sen trắng của ông vẫn không sum suê tươi tốt, sáng sủa bằng đóa sen trắng của ông cụ quỳ bên cạnh ông ” . Sau đó những người của cái gia đình này càng phát tâm, vào lúc pháp hội lần sau, chẳng những cả nhà đều đến, vả lại còn ngay đến những bạn thân hàng xóm bên cạnh nhà cũng đều dẫn đi theo, em gái nói : ” lần này đóa sen trắng của ông nội trở nên rất sum suê tươi tốt, rất sáng rồi ! ” .

Ấn Chứng về sự thù thắng của việc tham dự pháp hội – Tổ Tiên triêm quang

Vốn dĩ muốn quay về lại bên trong phật điện của lầu 5, nhưng lại bị Pháp Luật Chủ cản lại ở ngoài cửa, và khóc lóc gây ồn ào ở ban công bên ngoài phật điện . Điểm Truyền Sư, Giảng Sư và các vị bàn sự nhân viên nhìn thấy bèn đi ra ngoài quan sát. Lớp viên ( vẫn còn đang bị vong linh của mẹ cô nhập vào người ) dùng tiếng việt nói một cách buồn bã đau lòng rằng : ” tôi đã vất vả nuôi dưỡng đứa con gái này, thật chẳng dễ dàng gì để cho con bé đi Đài Loan làm việc, chính là vì để cải thiện cái gia đình nghèo khổ vất vả này. Sáu năm trước người mẹ già như tôi đây đã lìa khỏi thế gian, đọa vào địa ngục chịu khổ chịu nạn, nay thật chẳng dễ gì con gái có cơ hội đến dự pháp hội, để cho tôi cũng có cơ hội lên được phật điện thù thắng trang nghiêm này mà được triêm phật lực gia trì của thiên ân sư đức, để tôi có thể tạm thời thoát lìa đau khổ. Thế nhưng cũng bởi vì con gái nhất thời muốn rời khỏi phật đường, khiến tôi nghĩ đến việc lại phải quay về lại địa ngục đau khổ, bèn vô cùng buồn bã đau lòng . Xin các vị Tiền Hiền hãy giúp đỡ con gái tôi có thể dự xong hết pháp hội “.

Điểm Truyền Sư và các giảng sư thông qua sự phiên dịch của các vị đạo thân việt nam, mời vong linh sau khi rời khỏi thân xác đứa con gái bèn sẽ giúp đỡ dẫn dắt cô ấy có thể dự pháp hội một cách thuận lợi. Vào tiết cuối cùng nhất của ngày hôm đó ( Hiếu Đạo ) khi phát toàn bộ đoạn phim ra cho các vị đạo thân Việt Nam xem, Điểm Truyền Sư nhân cơ hội này đem sự tích hiển hóa này nói lại cho lớp viên nghe, dưới bục bèn vang lên những tiếng khóc nức nở, cảm nhận được sự thù thắng của pháp hội. Cuối cùng Điểm Truyền Sư cũng khích lệ các vị đạo thân, mời các vị tuần tới nhất định còn phải quay lại để bế ban lập nguyện ( bởi vì phần lớn các đạo thân việt nam ngày thứ bảy vẫn phải đi làm, kì nghỉ một lần khó mà sắp hai ngày, để tiện lợi cho họ mà dùng hai ngày chủ nhật của hai tuần lễ để mở xong pháp hội ).

Những Điều Thù Thắng Của Việc Giáng Đạo, Cầu Đạo, Tu Bàn Đạo Thời Kì Bạch Dương

Của Việc Giáng Đạo, Cầu Đạo, Tu Bàn Đạo Thời Kì Bạch Dương

Thánh Huấn của Lão Mẫu từ bi nói rằng : ” Có thiên mệnh có thể nương tựa, có Minh Sư có thể bái, có đại đạo có thể cầu, có thánh huấn có thể tham khảo nghiên cứu, có đạo mạch có thể lần theo, có Vạn Tiên Bồ Tát làm chứng, có Minh Sư một chỉ, có thể về cội nhận Mẫu, siêu Khí Thiên nhập Lí Thiên, thiên bảng ghi danh, địa phủ xoá tên . Tam Tào phổ độ, Nho gia ứng vận, phổ độ thâu viên, vạn giáo quy nhất, tại gia xuất gia, tại chốn bụi trần mà siêu vượt bụi trần, lấy phàm dưỡng Thánh, Thánh Phàm song tu, trọng Thánh khinh Phàm, Thánh Phàm như ý, người người cầu đạo, người người đắc đạo, người người tu đạo, người người thành đạo. Việc học đạo, tu đạo, giảng đạo, hành đạo cực kì đơn giản, cực kì gần gũi, nhanh nhất, tắt nhất, là pháp môn tu trì bạch dương tối thượng thừa. ”

Tận nhân đạo ( đạo làm người ) đạt đến Thiên đạo ( Đạo của trời ). Trong Đạo chẳng bàn luận chính trị, thực hiện đại nguyện từ bi vĩ đại hoá thế giới ta bà thành cõi nước tịnh độ, thành tựu thế giới đại đồng.

Hoạt Phật ân sư từ bi rằng : ” Những năm mạt kiếp thời kì thứ ba, đạo và kiếp cùng giáng xuống, nếu như có thể nắm bắt lấy cơ hội hành công lập đức này, thì là trội hơn vạn lần so với sự tu hành lập công của thời kì hồng dương, thanh dương của quá khứ , vậy nên nói đây là thời điểm tốt để lập nguyện liễu nguyện. Vào lúc này ơn trên từ bi thương xót người đời, chỉ cần người đời chịu hành một phần ngoại công, ơn trên bèn sẽ cho ba phần cảm ứng . Người đời chịu tận tâm hàm dưỡng nội đức ba phần thì ơn trên bèn sẽ cho mười phần cảm ứng. Có thể ở bên trong đại kiếp đại nạn, đồ nhi tu hành lập công một phần, ơn trên đặc ban hồng ân gia trì thêm linh quang thanh phước ngàn phần. Con có thể tu công đức mười phần, ơn trên bèn gia trì thêm linh quang của con thanh phước vạn phần . Từ ngàn đời xưa đến nay, chưa từng nghe thấy có cái cơ hội liễu nghiệp liễu nguyện như thế này, các đồ nhi nên dũng mãnh nhanh thêm bước tiến tu, sao có thể lại đợi chờ nữa ! Cái bảo vô giá rẻ như thế, xưa kia khó được, khó gặp đấy ! Từ ngàn xưa cho đến nay chưa từng nghe thấy có cơ hội tốt để liễu nghiệp, liễu nguyện như thế này đấy.

Bạch Dương Thiên Sứ nên gánh vác sứ mệnh kế thừa thánh nghiệp của các bậc Thánh Tiền Nhân xưa, mở mang khai khẩn con đường tương lai sáng lạng sau này cho các thế hệ mai sau.

Bạch Dương Thiên Sứ nên gánh vác sứ mệnh truyền thừa cây gậy Đạo.

Bạch Dương Thiên Sứ nên gánh vác sứ mệnh khai hoang xiển đạo.

Bạch Dương Thiên Sứ nên gánh vác sứ mệnh độ Chúng bố đức.

Bạch Dương Thiên Sứ gánh vác sứ mệnh thường chuyển bánh xe pháp.

Bạch Dương Thiên Sứ gánh vác việc tiến cử và sử dụng hiền tài.

Bạch Dương Thiên Sứ Gánh vác sứ mệnh sửa bỏ những lề thói cổ hủ lạc hậu không tốt.

Bạch Dương Thiên Sứ gánh vác sứ mệnh tịnh hoá nhân tâm.

Bạch Dương Thiên Sứ gánh vác sứ mệnh tạo phước cho cộng đồng.

Bạch Dương Thiên Sứ gánh vác sứ mệnh gánh kiếp cứu đời.

Liễu Nguyện Mà Về

Hiện này là lúc điều chỉnh lại thiên bàn, các con chẳng tu chẳng bàn thì khổng thể trở về lại Lí Thiên . Trời mở khoa tuyển, chúng ta phải có chí khí thành tựu ” Ba ngàn sáu trăm Thánh, Bốn vạn tám ngàn Hiền “. Đức Nam Hải Cổ Phật nói : ” Những ai mà đã đắc đạo rồi bèn tin tưởng sự tôn quý của cái đạo này, vả lại còn nhanh chóng biết tu đạo độ người, thì đều là những vị Tiên Chơn Bồ Tát từ Lí Thiên lập nguyện mà xuống, có sứ mệnh đấy , vậy nên không thể xem nhẹ bản thân. ”

Quảng Khâm Hoà Thượng cầu đạo kí : Ngài trụ trì chùa Thừa – Thiên, sau khi quy không thì khấu cầu ân sư Tế Công Hoạt Phật chỉ điểm. Tuy rằng lúc còn tại thế xuất gia đã thật sự buông bỏ vạn sự, chân thành ẩn tu, thực hành đủ thứ khổ hạnh gian khó, quả thật là bậc chân tu, thật hành, thế nhưng chưa đắc được một điểm siêu sanh, tuy rằng sau lễ trà-tỳ ( hoả thiêu ) ngài đã để lại rất nhiều xá lợi và có nhiều sự linh hiển, thế nhưng linh tánh chỉ trở về đến cõi Khí Thiên, tu luyện vài trăm ngày rồi sau đó khấu cầu Đạo Đức Thiên Tôn Thái Thượng Lão Quân dẫn đưa đến trước toà sen của Lão Mẫu, khấu cầu Hoạt Phật Tế Điên, đã đến lúc được ban cho một chỉ điểm, trở về Vô Cực Lí Thiên thoát khỏi sự luân chuyển. Hai vị dẫn bảo sư là Ngọc Sơn và Nguyệt Chi ( dẫn sư Ngọc Sơn do nhân duyên tiền kiếp là huynh đệ với ngài Quảng Khâm nên mới có nhân duyên dẫn sư kiếp này, sùng bái ngài Quảng Khâm; Bảo Sư Nguyệt Chi bao kiếp chẳng muội tánh điền của bản thân, có một kiếp cùng là tỳ kheo, cùng đồng cam cộng khổ tu luyện chung với ngài Quảng Khâm ).

Sự Thù Thắng Của Nhân Duyên Di Lặc

Chúng ta may mắn gặp được đại đạo, trở thành quyến thuộc Di lặc, chẳng ai không có cảm thụ sâu sắc pháp tướng trang nghiêm : ” giai đại hoan hỷ ” , ” đại đỗ năng dung, liễu khước nhân gian đa thiểu sự, mãn khang hoan hỷ, tiếu khai thiên hạ cổ kim sầu” ( dịch nghĩa : ” Lòng rộng bao la, quét sạch trần gian vô hạn hận , mặt đầy hoan hỷ, cười tiêu thiên hạ cổ kim sầu.”) của Di Lặc từ tôn; đắc thụ đại đạo chí tôn chí quý khiến cho người ta lòng tràn đầy hoan hỷ, tương lai siêu thoát sanh tử luân hồi lại càng là đáng vui đáng chúc mừng. Phúc phận của các đệ tử bạch dương lũy kiếp tu tích, may mắn gặp được nhân duyên ứng vận của Di Lặc, đối với pháp duyên thù thắng này càng nên có sự hiểu biết và thể hội đi sâu vào hơn mới chẳng phụ hoành ân của ơn trên và sự từ bi của chư phật.

I. Một nhân duyên đại sự

Diệu pháp liên hoa kinh rằng : ” Chư phật thế tôn xuất hiện ở thế gian duy chỉ vì một nhân duyên đại sự “. Một đại sự là tri kiến của phật. Mỗi vị tiên phật phụng ý chỉ của Vô Sanh Lão Mẫu, hạ sanh nhân gian truyền dương phật pháp, dạy bảo khích lệ chúng sinh mở ra tri kiến của phật. Nếu nghe khai thị bèn có thể ngộ nhập, tức tri kiến của phật ” chân tánh bổn lai ” được xuất hiện. Thật ra tri kiến của phật chỉ là tự tâm của chúng ta, càng chẳng có phật nào khác. Chỉ vì tâm chúng sanh mê muội, do đó chư phật thế tôn dựa vào nhân duyên này xuất thế, dạy bảo khích lệ nghỉ ngơi, chớ có hướng ra bên ngoài mà cầu; ở trong tự tâm bèn thường mở ra tri kiến của phật, phật tánh của tự tâm sáng hiện rõ.

Người đời tâm tà, ngu mê tạo tội, khẩu thiện tâm ác, tham sân đố kị, xu nịnh ngã mạn, làm tổn thương người, hại vật, tự mở ra tri kiến của chúng sanh; nếu có thể chánh tâm, thường sanh trí tuệ, quán chiếu tự tâm, ngừng ác hành thiện, là tự mở ra tri kiến của phật. Tiên phật giáng thế là khuyến hóa chúng sanh cần phải niệm niệm mở ra tri kiến của phật, trừ bỏ đi tri kiến của chúng sanh, mở ra tri kiến phật tức là xuất thế, mở ra tri kiến chúng sanh tức là thế gian. Do đó nhân duyên của Tiên Phật giáng thế là vì cứu độ chúng sanh ra khỏi biển khổ luân hồi của thế gian.

II. Thiên thời ứng vận

Kinh ứng kiếp rằng : ” hỗn độn sơ khai định tựu thập phật chưởng giáo ” ” thất phật trị thế, tam phật thâu viên “. Tiên thiên nguyên thủy, một đống chẳng thể phân biệt, vô thanh vô xú ( chẳng âm thanh chẳng mùi vị ) , chẳng có tên gọi của nó. Sau đó hỗn độn sơ khai, trời đất bắt đầu định, là hội tí khai thiên, hội sửu khai khẩn địa, hội dần sinh người. Do vậy nguyên nhân giáng trần, gieo trồng nhân căn. Lúc bấy giờ, cây cỏ um tùm dày đặc, dã thú hoành hành, không thể trị thế, tuy có người mà giống như chẳng có người, chẳng thành thế giới. Đến hội mão trời giáng phật tử trị thế. Vị phật đầu tiên giáng sanh tại phương nam, tên gọi là Xích Ái Phật. Vị phật thứ hai giáng sanh tại phương bắc, tên gọi là Sanh Dục Tử. Vị phật thứ ba giáng sanh tại phương đông, tên gọi là Giáp Tam Xuân. Vị phật thứ tư giáng sanh tại phương tây, tên gọi là Dậu Trường Canh. Vị phật thứ năm giáng sanh tại phương Tây Bắc, tên gọi là Không Cốc Thần. Vị Phật thứ sáu giáng sanh tại phương Đông Nam, tên gọi là Long Dã Thị. Vị Phật thứ bảy giáng sanh tại phương Đông Bắc, tên gọi là Kế Thiên Phật.

Thất phật ứng vận trị thế, sau đó Tam phật ứng vận thâu viên, Phật Nhiên Đăng là vị phật thứ tám ứng vận, là thời kì Thanh Dương, sơ hội thâu viên, đại khai Liên Trì Hội. Phật Thích Ca, vị phật thứ chín ứng vận, là thời kì Hồng Dương, nhị hội thâu viên, đại khai Linh Sơn Hội. Di Lặc Phật, vị phật thứ mười ứng vận, là thời kì Bạch Dương, tam hội thâu viên, đại khai Long Hoa Hội. Đến hội mùi khí số tận, trị thế viên mãn, hội thân nguyên linh thâu hồi, hội Dậu tượng thiên chẳng còn, hội Tuất khí thiên chẳng còn, đến hội Hợi trở về lại hỗn độn, đấy là sự vận chuyển của thiên thời một nguyên hội.

Nay đúng vào thời điểm Ngọ Mùi giao nhau, lúc mạt pháp truyền thế, Di Lặc Tổ Sư ứng vận vào thời kì Bạch Dương, là vị phật tổ thứ mười ứng vận vào nguyên hội này ( Nam Mô A Di Thập Phật Thiên Nguyên ), phụng mệnh của Lão mẫu truyền mạt hậu nhất trước này, thề nguyện hóa thế giới Sa Bà thành Liên Bang, kiến lập nhân gian tịnh thổ để đạt thành nhiệm vụ thần thánh của thập phật trị thế viên mãn.

III. Nhân duyên Di Lặc ứng vận

Từ tâm của chư phật như lai thường mang nguyện lực độ hóa chúng sanh, mà Di Lặc Tổ Sư kế thừa tuệ mệnh truyền nhau chẳng dứt của Thích Ca Phật Đà, vì việc đại thâu viên của mạt hậu nhất trước mà trở thành vị phật tương lai của một đại sự nhân duyên này, là chỗ quy y lớn của tất cả chúng sanh của thế giới sa bà. Di Lặc Tổ Sư đem toàn bộ từ tâm đức hoài của ngài, cụ thể thị hiện thành sự tu hành của những kiếp đã trải qua, đời đời kiếp kiếp đảo giá từ hàng, tùy duyên của chúng sanh mà quảng nhiếp tất cả sinh mệnh đi hướng đến đạo thành phật. Nhân duyên của những vết tích giáo hóa của Di Lặc Tổ Sư, đạo phong đức hạnh của ngài được ghi chép rõ ràng tường tận trong phật điển tổ huấn, hoặc những lời từ bi chỉ thị của Phật Đà Thích Ca, hoặc Di Lặc từ hoài đã thị hiện; kỳ vọng là mọi người có thể nhận thức được nhân duyên vết tích giáo hóa của vị phật tương lai này.

Đức Phật liền duỗi tay hữu kim sắc chói ánh sáng vi diệu được tập họp bởi những thiện căn từ vô lượng a tăng kỳ kiếp, ngón và bàn tay Phật như hoa sen rồi xoa đảnh đầu Di Lặc đại Bồ Tát mà bảo rằng : ” Nầy Di Lặc ! Ta phó chúc cho ông, năm trăm năm sau đời vị lai lúc chánh pháp diệt, ông phải thủ hộ Phật Pháp Tăng bửu chớ để đoạn tuyệt “.

Phật Thích Ca Mâu Ni dự kí Di Lặc đời vị lai thành phật là điều chẳng có nghi ngờ, và cũng phó chúc Di Lặc vào 500 năm sau đời mạt thế, lúc chánh pháp diệt, phải thủ hộ chánh pháp của Như Lai, thúc đẩy lại đạo phong của chánh tông. Đấy là Đại Bồ Tát gánh vác trọng trách và sứ mệnh khó khăn nặng nhiều như thế. Cái thuyết ” Năm trăm năm sau “, trong kim cang kinh phật cũng vài lần đề cập đến, phật rằng : ” ” sau khi đức Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau “, đấy tuy giống như là lời giả định, nhưng vô hình trung đã trở thành lời dự đoán.

Theo Kinh Đại tập đã nói cái thuyết ” ngũ ngũ bách niên ” ( năm trăm năm của sau năm kì khi phật diệt độ ). Phật diệt độ đến nay chính là hơn 2500 năm, do đó ” năm trăm năm sau ” mà Như Lai đã nói thật ra chính là lời dự đoán của đại đạo phổ truyền hôm nay. ( Ngũ ngũ bách niên tổng cộng chia làm 5 kì : kì giải thoát kiên cố, kì thiền định kiên cố, kì đa văn kiên cố, kì tháp tự kiên cố, kì đấu tranh kiên cố. ) mà thời kì truyền thừa của phật pháp : chánh pháp 1000 năm, tượng pháp 1000 năm, mạt pháp 1000 năm, lúc này cũng chính là năm trăm năm sau của mạt pháp.

Nay Di Lặc từ tôn có thể thụ lời phó chúc của Phật Đà, vào hôm nay của ” 500 năm sau của mạt thế đời vị lai ” làm sư tử hống, thủ hộ chánh pháp của Như Lai, đủ thấy sự hùng vĩ của nguyện lực, tuệ tâm sâu rõ sáng suốt và sứ mệnh trọng đại của Di Lặc. Đặc biệt là vào lúc chánh pháp vì tri kiến của chúng sanh mà bị ẩn giấu, hộ trì pháp A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề mà Như Lai trong trăm nghìn vạn ức na do tha a tăng kì kiếp đã tập, khai diễn chánh pháp vô thượng, làm hưng khởi trở lại Thánh đạo chánh tông, có thể thấy một đại sự nhân duyên thù thắng khó đắc của Di Lặc ứng vận.

2. Kinh Phật thuyết Quán Di Lặc Bồ tát thượng sanh Đâu Suất Thiên

Khi ấy sẽ có trăm ngàn thiên tử trỗi nhạc trời, cầm hoa trời mạn-đà-la và hoa ma-ha mạn-đà-la để rải lên họ, rồi ngợi khen rằng:

‘Lành thay, lành thay, thiện nam tử! Khi ông ở Diêm-phù-đề đã rộng tu phước nghiệp nên được sanh về đây. Nơi này là trời Đâu-suất-đà. Hiện nay vị thiên chủ ở đây là Đức Di-lặc, ông hãy quy y ngài.’

Khi nghe rồi thì hãy liền đảnh lễ. Khi lễ xong thì hãy quán rõ tướng ánh sáng của lông mày trắng ở giữa đôi chân mày của Đức Di-lặc. Lập tức họ sẽ siêu việt 9 tỷ kiếp nghiệp tội sanh tử. Ngay lúc đó, Đức Bồ-Tát sẽ tùy theo túc thế nhân duyên của họ mà thuyết diệu Pháp, khiến tâm người ấy kiên cố và không còn thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo.

Lại nữa, Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

“Ông hãy lắng nghe! Vào đời vị lai, Di-lặc Bồ-Tát sẽ làm nơi quy y rộng lớn cho chúng sanh. Nếu có ai quy y Di-lặc Bồ-Tát, thời phải biết người này sẽ được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo.

Tương lai Di Lặc Bồ Tát hạ sanh nơi nhân gian, khi chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, thì những người thực hành như vậy có thể đích thân nhìn thấy ánh hào quang của Phật, được Phật thọ ký, đắc chứng quả phật.

Tôn xưng của phật hiệu Di Lặc đời vị lai, nhân duyên vết tích giáo hóa của ngài thường nhìn thấy trong phật điển tổ huấn, như phật điển đã cho thấy Di Lặc Tổ Sư là nơi tổng quy y của tất cả chúng sanh của thế giới sa bà vào đời mạt hậu, nối tiếp sau phật thích ca mâu ni, cũng là vị chưởng trì thiên bàn của mạt hậu nhất trước đại thâu viên. Do có đại sự nhân duyên của mạt hậu nhất trước, do đó những thánh tích hóa tục độ thế của ngài chẳng dứt ở đời.

3. Kinh Phật thuyết Di Lặc hạ sanh thành phật

Di Lặc Bồ Tát giáng sanh nhân gian, như mặt trời phá mây mà ra, phóng ánh sáng khắp nơi, như sen ra khỏi nước, thanh tịnh sạch sẽ tươi. Sau khi Di Lặc giáng sanh, những tháng ngày tại gia chẳng nhiều, bèn xuất gia học đạo.

” Thuở ấy, có cây Bồ đề tên gọi là Long Hoa, cao bốn du-thiên-na, sầm uất và tươi tốt, cành lá phủ bốn bề, che mát sáu cu-lô. Từ Thị Đại Bi tôn, ngồi dưới cây thành Phật “

Khi Di Lặc Bồ Tát ở dưới cây Long Hoa chứng đắc phật vị cứu cánh chánh đẳng chánh giác, lúc ngài trở thành mới sinh, tam thiên đại thiên sát độ thế giới xuất hiện 6 loại chấn động, các địa thần đều chạy nối đuôi nhau bảo với nhau rằng : ” Bây giờ Di Lặc Bồ Tát đã thành phật rồi ! “. Cái tin tức này tức khắc truyền đến Tứ Thiên Vương Cung, tất cả đều biết Di Lặc đã thành Phật.

Cái loại âm thanh của việc tranh nhau chạy đi loan báo này truyền khắp 33 cõi trời, tức 6 cõi trời dục giới : cõi trời Tứ thiên vương, cõi trời Đao Lợi, cõi trời Diễm Ma, cõi trời Đâu Suất, cõi trời Hóa Lạc, cõi trời Tha Hóa Tự Tại và chư thiên phạm thiên tứ thiền, thậm chí cõi Tứ thiền sắc cứu cánh đều hoan hỷ tán thán với nhau rằng Di lặc Bồ tát hạ sanh nhân gian , tu đạo thành công, lại chứng đắc phật vị cứu cánh vô thượng chánh đẳng chánh giác, có thể thấy rằng tu đạo thành đạo, chứng quả thành chân là tôn quý và thù thắng biết bao.

4. Kinh Duy Ma Cật

Bấy giờ Phật nói với Bồ tát Di Lặc:

“Này Di Lặc, nay ta đem Pháp giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác đã tập thành trong vô lượng kiếp phó chúc cho ngươi. Vào thời mạt thế, sau khi Phật diệt độ, ngươi nên dùng năng lực thần thông để giảng truyền rộng rãi những kinh như vầy nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để bị đoạn tuyệt.

IV. Duyên khởi của Thánh hiệu Di Lặc

1. ” Di Lặc ” là dịch âm tiếng phạn. Nghĩa của”Di Lặc ” dịch là ” từ thị ”

2. Phật danh ” Di Lặc ” ( từ thị ), họ của cha, họ của mẹ đều có Từ, do vậy tên là Từ thị. Tự là ” A Dật Đa “, ý nghĩa là vô năng thắng ( chẳng có thể thắng nổi ).

Di Lặc phát nguyện thành phật trong đời vị lai, phật bèn tán thán phát tâm của ngài cực diệu. Do sau này người ta thường đem toàn tên của Di Lặc dịch là ” Từ vô năng thắng “, ý rằng sự bộc lộ của từ tâm vô lượng hạnh là cái mà tất cả chư ma ngoại đạo chẳng thể thắng nổi. Di Lặc Bồ Tát từ lúc mới sinh ra đã phát tâm chẳng ăn thịt của chúng sanh, do nhân duyên này mà gọi tên là Từ Thị.

3. Di Lặc đã từng là người của cùng thời đại với Phật Thích Ca Mâu Ni, sanh tại nước Ba La Nại Tư. Phụ thân của ngài là tể tướng của quốc gia này. Di Lặc sinh ra có đủ 32 tướng tốt, và do mẫu thân của ngài kể từ lúc mang thai bỗng trở nên có lòng từ bi thương xót mọi khổ ách, từ mẫn mọi thứ, cảm nhận sâu rằng đấy là do nguyện lực của con gây ra, cho nên lấy tên cho con mình là ” Di Lặc ”

Di Lặc lúc nhỏ, không chỉ được sự yêu thích sâu sắc của phụ mẫu, mà sự thông tuệ và từ tâm của cậu càng giành được sự cưng yêu và tán thưởng của mọi người. Lúc bấy giờ quốc vương Ba La Ma Đạt nghe được chuyện này, sanh tâm đố kị và lo sợ, tự nghĩ rằng đứa bé này ” danh tướng rõ đẹp, nếu có phẩm đức cao đẹp, chắc chắn sẽ đoạt được ngôi của ta “, do đó nghĩ cách nhân lúc cậu bé còn nhỏ thì đem trừ bỏ đi để cắt đứt hậu hoạn. Ý đồ như thế này của quốc vương đã bị nhân viên trong cung nghe ngóng thám thính được, bí mật báo cho tể tướng hay. Tể tướng vì thế mà quyết định gửi Di Lặc đến nước Ba Lợi Phất Đa La, tạm thời gửi ở nhờ nhà của chú của Di Lặc để đế phòng bất trắc.

Chú Ba Bà Li của Di Lặc là quốc sư của nước Ba Lợi Phất Đa La, thông tuệ cao rộng, trí tuệ hiển đạt, có tài năng đặc biệt, thuộc hạ gồm 500 đệ tử, thường đi theo thầy học tập. Ba Bà Li nhìn thấy tướng mạo đặc biệt của Di Lặc, trí tuệ thông minh lanh lợi, càng thêm thương yêu bảo vệ, bèn truyền thụ cho tất cả học vấn, chẳng qua một năm mà Di Lặc hoàn toàn thông đạt. Ba Bà Li do nghe thấy đủ thứ công đức trí năng của Phật Đà, sanh tâm vui vẻ, đặc biệt phái nhóm Di Lặc 16 người đại biểu đi trước để thỉnh cầu sự chỉ dạy rõ ràng tường tận của đức phật. Nhóm Di Lặc 16 người đích thân đến trước phật, đính lễ thụ giáo, đích thân lắng nghe phật pháp, 16 người lúc ấy đều đắc pháp nhãn thanh tịnh, mỗi người đều cầu phật xuất gia, trở thành những đệ tử thường theo bên mình của Phật Đà.

4. Di Lặc tôn giả từ tâm vô lượng, chẳng bỏ chúng sanh của thế gian, quan sát thấy chúng sanh gặp phải sự xâm phạm của tam tai bát nạn và chịu đựng sự dày vò của những đau khổ sinh tử luân hồi, nên đã cửu chuyển thập sinh nhiều lần hóa tích nhân duyên, thị hiện ở nhân gian, ví dụ như :

Hạ sanh kiếp thứ nhất tên gọi là Đàm Ma Lưu Chi ( Phật Thế Tôn khai thị cho A Nan Tôn Giả )

Hạ sanh kiếp thứ hai tên gọi là Tì Kim Da Vô Cấu ( ghi chép trong Bi Hoa Kinh )

Hạ sanh kiếp thứ ba tên gọi là Hiền Hành ( Di Lặc Bồ Tát sở vấn bổn nguyện kinh ) Hạ sanh kiếp thứ tứ tên gọi là Vũ Thất ( Kinh Đại Bảo Tích )

Hạ sanh kiếp thứ năm tên gọi là Di Lặc ( Di Lặc hạ sanh kinh )

Hạ sanh kiếp thứ sáu tên gọi là Phó Hấp,người ta gọi là Phó Đại Phu ( Cảnh Đức truyền đăng lục )

Hạ sanh kiếp thứ bảy tên gọi là Bố Đại Hòa Thượng ( thời kì đường mạt )

Hạ sanh kiếp thứ tám tên gọi là Lí Đình Ngọc ( Vạn Tổ Quy chân kinh )

Hạ sanh kiếp thứ chín tên gọi là Từ Hoàn Vô, đạo hiệu Cát Nam ( Chánh Tông Đạo Thống Bảo Giám )

Hạ sanh kiếp thứ mười tên gọi là Lộ trung Nhất, đạo hiệu là Thông Lí Tử ( Chánh Tông Đạo Thống Bảo Giám )

Di-lặc, chân Di-lặc Phân thân trăm ngàn ức Luôn luôn bảo người đời Người đời tự chẳng biết.

Tuy rằng Phật Thế Tôn từng dự đoán Di Lặc tương lai hạ sanh nơi nhân gian và những gì đã kể ra ở trên hình như có mâu thuẫn, nhưng Phật Di Lặc đại từ đại bi, trước khi vẫn chưa đại khai phổ độ, đã nhiều lần hóa thân nơi nhân gian, đều là để làm công tác chuẩn bị cho mạt hậu thâu viên, mục đích là để người đời cầu sanh Đâu Suất Thiên, lắng nghe Di Lặc giáo hóa dựa theo pháp tu trì, đợi công đức viên mãn, tương lai Di Lặc hạ sanh thành Phật, lúc khai diễn Long Hoa Tam Hội, lại theo Di Lặc hạ sanh nhân gian, hoàn thành sứ mệnh phổ độ thâu viên.

Phương Pháp Tu Trì Của Cư Sĩ Bạch Dương Kì

Đạo là từ xưa đã có người tu rồi, mà phương pháp tu trì bây giờ và trước đây có cái gì khác biệt ? Trước khi muốn tham thảo điểm này, trước hết hãy tìm hiểu vì sao phải tu trì ? Lấy chiếc quạt điện mà nói, nếu bị sự cố ngừng rồi là do công tắc đóng mở thì phải sửa công tắc đóng mở mới có thể khôi phục lại. Đối với chúng sanh mà nói, 60000 năm nay trôi trong dòng lục đạo luân hồi, tại thế gian có lúc làm người, có lúc làm súc sanh, vì sao chúng ta chưa thể siêu sanh liễu tử, chẳng được giải thoát tự tại ? Nguyên nhân này, thói xấu đến từ đâu ? phải tìm ra để trị liệu, đấy chính là tu trì.

Trước khi thiên đạo đại khai phổ độ, Thánh nhân của tam giáo mỗi vị có dạy bảo dẫn dắt rất nhiều phương pháp tu trì, đáng tiếc đều chẳng phải là đốn pháp. Chỉ nói riêng trong pháp liễu sanh tử mà Phật Như Lai đã nói thì đã có nhiều đến tám vạn bốn nghìn pháp môn, vả lại đều là tiệm pháp. Cho nên, sanh tử chẳng cách nào liễu ngay, chỉ có thể rời khỏi dần dần. Do vậy muốn tu trì trong kiếp này hy vọng siêu sanh liễu tử là chuyện tuyệt đối chẳng thể nào. Vậy thì Sư Tôn Sư Mẫu truyền thiên đạo này cho chúng ta tu trì, rốt cuộc có tương đối thù thắng và dễ tu chăng ? Nói toạc ra thì thiên đạo là tu cứu cánh nhất, phương tiện nhất. Tu đạo nếu chẳng cứu cánh cũng giống như sanh bệnh mà chẳng có kê đúng thuốc trị đúng bệnh, kết quả chỉ có thể trấn áp mà chưa thể đoạn căn ( chặt đứt tận gốc ). Trị ngọn mà chưa trị được gốc như thế chính là tu phước báo của kiếp sau. Đợi đến khi hồng phước hưởng hết rồi lại phải đi luân hồi. Chỗ thù thắng nhất của Thiên Đạo chính là truyền tam bảo tâm pháp bao hàm đạo thật, lý thật, thiên mệnh thật.

Cái mà Sư Tôn Sư Mẫu lần này truyền cho gọi là ” mạt hậu nhất trước “, bởi vì chúng sanh sáu vạn năm nay sanh sanh tử tử luân hồi trong biển khổ đã đến bước rất thảm hại rồi. Vì sao lại sớm chẳng truyền, muộn chẳng truyền ? chính là đang chờ đợi thời cơ nhân duyên. Nếu đến sớm, nước rất cạn nên bạn chẳng sợ, đến muộn, nước đã ngập đến mũi rồi thì đã không kịp nữa. Cho nên vào lúc thiên vận Ngọ mùi thay thế nhau, đại khai phổ độ chính là đến đúng lúc. Vì sao bây giờ chẳng bảo bạn ngồi thiền, đến núi sâu tìm bạn luận đạo, đấy là do thời khắc nhân duyên. Sáu vạn năm nay oan bại nghiệt trái làm một lần đại thanh toán, oan trái đã tích đầy rồi, đang ở rìa mép bùng phát, cho nên vừa đúng lúc thời cơ đến, tam kì mạt kiếp, lúc tai kiếp sắp ập đến, tiên phật từ bi gánh đỡ lấy.

Từ xưa đến nay, cái mà tiên phật truyền thụ, tự tánh phật mà mọi người đều có, phát lộ ra ngoài, tức là chỉ ra bổn tánh của bạn, bạn chính là thánh nhân, là chư phật bồ tát, cảnh giới quang minh sáng ngời chính là ở đây, thập phương thế giới cũng ở phương thốn bảo điền này, thế giới hoa nghiêm ở đây, tịnh thổ nhân gian cũng ở đây, đây là nơi thuần tịnh nhất, quang minh nhất, tức là từ xưa đến nay, Phật Phật mật truyền bổn thể, sư sư mật phó bổn tâm. Có bổn thể ( linh ) chúng ta mới có thể đi đây đi đó, có thể mới có thể dụng ( mặc áo, ăn cơm ), sáu vạn năm nay chẳng biết bổn thể, cho nên dụng sai hết thảy, từ ba đời ( Nghiêu, Thuấn, Vũ ) đến nay thì đã phân chẳng rõ nhân tâm, đạo tâm rồi.

Nhân chi sơ, tánh bổn thiện ? bổn ác ? tức là thiện ác đã rơi vào đối đãi rồi. Chúng ta đắc thọ chơn truyền, truyền trực tâm của chúng ta, điểm này linh nhất, bạn và tôi đều như vậy. Cái tâm tiên thiên từ cung nê hoàn của đỉnh đầu kéo xuống, thông qua mắt có thể thấy, mũi có thể hít thở ( Thượng đế dựa vào hình dạng của ngài nặn nên hình con người bùn đất, rồi hà sinh khí vào mũi thì thành người sống có linh hồn, ) miệng có thể ăn, truyền mãi đến hệ thống tiêu hóa, đường trực tuyến này gọi là hoàng trung thông lý, lấy nguyên thần làm bảo vệ, làm trực tâm để dựa dẫm, đấy là một con đường tiên thiên mà Lão mẫu đã sanh, chẳng dạy mà hành, chẳng học mà biết.

Đạo chẳng thuộc tu, nói tu bèn rơi vào giai cấp. Sám hối, hành công liễu nguyện, độ người là quyền pháp, còn thật pháp thì có chỗ khác, bình đẳng, Lão Mẫu đã sanh ra cho chúng ta, chẳng phải do học mà có, nay con được một chỉ, phiêu phiêu nơi thiên đường, chẳng có sinh và tử, chung nhật luyện thần quang. Một chỉ của Minh Sư tuyệt đối siêu sanh liễu tử, chẳng ở chỗ tu. Nay sở dĩ phải tu là bởi vì tâm can của chúng ta đã mê muội rồi, đánh mất trực tâm mới phải tu, thật ra chỉ cần có lòng tin gìn giữ cái gốc, tùy việc màứng cảnh, làm việc mà chẳng nhận rằng mình có công lao, qua rồi thì quên đi những việc tốt mà mình đã làm, đấy là thật pháp. Sẽ chẳng vì khuyên người ăn chay hoặc đã độ vài chục người cầu đạo mà vui ba năm chưa thể quên. Đương nhiên đấy là những điều đáng vui, nhưng đối với việc siêu danh liễu tử mà nói thì vẫn chưa đạt tiêu chuẩn qua.

Sau khi đắc đạo chẳng phải là giống như phụ nữ giặt quần áo, phải dốc hết dức để tẩy rửa trắng tinh. Đạo là : nhất niệm hồi quang chiếu đại thiên ( Tạm dịch : một niệm hồi quang phản chiếu soi khắp đại thiên thế giới ) . Quay đầu lại xem, những vướng mắc níu kéo của chúng ta nhiều biết bao nhiêu, toàn bộ đều buông xả xuống hết thì được rồi, Tây thiên tuy xa nhưng trong phút chốc thì đến.

Đạo thuộc tiên thiên, nhưng mà đắc trước rồi tu sau, cái đắc trước là trực tâm, cái tu là cái tâm hậu thiên, khiến cho tâm và tánh dựa vào nhau. Con đường xưa của sáu vạn năm nay đã đi quen rồi; giờ mở ra một con đường mới, giả sử nếu chẳng có người dẫn dắt một lần, hai lần cho bạn, thì bạn sẽ chẳng đi tốt được. Niệm đầu nếu thường đi lệch rồi thì sẽ nuôi dưỡng thành thói quen như cơm bữa vậy. Đây là con đường phải tu, chân lí mọi người đã đắc được rồi, sáu vạn năm nay tự ngỡ rằng là đúng nhất định cần phải sửa lại cho đúng, lấy chân lí đạo đức làm trung tâm. Nếu phân hai chúng ta cãi nhau, sẽ trách tội nhau, nếu chẳng được đối phương nhận lỗi sai với mình trước thì mình sẽ bỏ mặc không quan tâm đến họ, đấy tức là tập khí bạo lưu mà thiền gia nói. Phàm việc gì cũng đều là tương đối, phải từ trong đó tìm ra một cái đạo trung dung; người tu đạo mà là người tiêu cực cảm thấy việc gì cũng chẳng thuận, cho rằng chẳng cần tu đạo nữa, càng tu càng phiền; người tích cực sẽ nghĩ rằng lúc không tu đạo thì sóng yên gió lặng, bình đạm nhạt nhẽo vô vị, tu rồi trái lại muôn vẻ sắc màu, có khi thầy khảo, có khi con cái khảo. Tâm cảnh của con người phải chuyển mới được, giống như một người tính tình nóng nảy, cái tánh quen đụng chạm kích động một cái thì nổi nóng liền, tiếp cận phật đường nhiều thì sẽ từ từ kiểm thảo cải tiến. Anh ta có lẽ sẽ nói rằng : tâm của tôi chẳng hư xấu, vốn dĩ là như thế, nổi nóng xong rồi thì chẳng có việc gì; bản thân anh ta chẳng có việc gì, nhưng người khác có thể đã bị tổn thương rồi.

Đạo ( linh tánh ) vốn dĩ là tốt, chẳng thuộc tu, cái phải tu chính là cái tâm này. Lục Tổ đàn kinh ghi chép : vì sao Đại sư huynh ( Thần Tú ) chẳng đắc được y bát, mà một Huệ Năng giã gạo thì lại đắc được y bát vậy ? bởi vì một vị là nhìn trên phương diện ” giáo ” : thời thời cần phất thức, vật sứ nhạ trần ai ( luôn luôn phải lau chùi, chớ để dính bụi trần ). Một vị đã ngộ cái ” bổn lai vô nhất vật, hà sứ nhạ trần ai ” ( xưa nay không một vật, nơi nào dính bụi trần ? ) . Cái tâm ngay thẳng ( bổn thể ) vốn có, chẳng phải do người dạy, chẳng phải là tạo tác. Cũng như là nhìn thấy một đứa bé sắp bị xe đụng phải, bất kể người nào phát hiện thì cũng sẽ nhất định lập tức kéo đứa bé khỏi, cứu lấy nó một mạng. Cái ” thiên lí lương tâm ” ngay thẳng này là mọi người đều có. Một niệm ngay lúc ấy chẳng cần phải người ta dạy. Con người ta biết tửu sắc tài khí, tham sân si ái, đấy là cái tâm hậu thiên, phải điều chỉnh, phải tu sửa, vấn đề phải đối mặt, dụng chút công phu. Cái mà sư tôn sư mẫu truyền cho chúng ta là tâm ngay thẳng, vậy mà cái chúng ta tu lại là cái tính nóng nảy, lại thêm một chút tâm hậu thiên, ” có tôi ” sẽ có cái sĩ diện của tôi, xã hội của tôi, danh lợi của tôi, địa vị của tôi, còn trực tâm thì đánh mất rồi. Tu đạo chỉ là phải hóa bỏ đi những lòng tham, dục vọng, chấp trước này thôi.

Lúc chúng ta cầu đạo đã có lập mười điều nguyện lớn, điều thứ nhất là sau khi đắc đạo thì thành tâm bảo thủ, thật tâm sám hối ( tu luyện ). Cái gì gọi là thành tâm bảo thủ, phải bảo thủ cái gì ? Sau khi đắc đạo chẳng nhiều thêm được cái gì, cũng chẳng ít đi cái gì ( tự tánh bất tăng bất giảm ), chỉ là trước đây mê muội mất, nay ít nhiều có chút khai ngộ; trước đây đen tối hắc ám, nay ít nhiều có chút quang minh; chúng ta phải gìn giữ cái điểm linh quang này, sau khi khai quang điểm nhãn phải khiến cho tâm đăng ( ngọn đèn trong tâm ) bảo trì sự quang minh,bất luận trong gia đình hoặc xã hội, chúng ta đã tiến đạo rồi thì phải chịu đựng nổi sự hiểu lầm, hủy báng, nếu không sẽ dẫn động ra những tập tánh mà sáu vạn năm nay chưa hóa bỏ được. Do vậy, trị liệu cái này thì phải thật tâm sám hối. Các tôn giáo đều rất xem trọng sám hối, bởi vì chỉ cần là người thì phải ở chung với người, ở chung thì sẽ có những sự tình có mức độ thích hợp nhất định, phải cân nhắc nặng nhẹ mà phạm phải lỗi lầm. Chẳng sợ đã phạm lỗi, chỉ sợ chẳng sửa lỗi, chẳng phải chỉ là nhận lỗi bằng miệng mà phải phát hiện từ đáy lòng, cảm tưởng những cái không tốt của bản thân mình, đấy là trọng điểm của sám hối, sám hối càng sạch rồi thì tiến đạo sẽ càng nhanh.

Có thể nhớ lại cái lúc ấy cầu đạo muốn chúng ta bình tâm tịnh khí nhìn phật đèn, quỳ nghe lễ chúc. Tâm cảnh của chúng ta như có sóng nước, khởi lên làn sóng nhỏ rồi thì phải cẩn thận, không thể đợi đến vọt trào lên sóng bạc đầu thì đã quá chậm rồi. Trong nhị lục thời trung ( cả ngày ) lúc chúng ta thành toàn hậu học hoặc tiếp nhận chỉ thị của Tiền Hiền, ít nhiều sẽ vì một câu nói chẳng thuận tai mà trong lòng rất không thoải mái, do vậy chúng ta quan tâm chăm sóc tâm niệm phải giống như mèo bắt chuột vậy, niệm đầu khởi lên một cái thì nhanh chóng nắm bắt lấy, tâm niệm tác quái, phải nhanh chóng hồi quang phản chiếu, chớ có để cho tập khí bạo lưu dễ dàng tuôn ra. Tiền bối nói một câu nặng lời, trong lòng bèn chẳng cân bằng, vì sao chẳng chịu nổi sự mài luyện vậy ? chỉ muốn nếm ngọt mãi, trẻ sơ sinh muốn lớn lên thì phải dứt sữa, chúng ta muốn thành tựu đạo nghiệp thì phải qua được khảo nghiệm.

” Vô sanh sám hối ” cứu cánh nhất thì giống như ánh sáng mặt trời rất nhanh làm tan chảy các tảng băng vậy, thể ngộ tự tánh là không, quá khứ thì để nó qua đi, những hành vi sau này mới là quan trọng nhất. Chỉ hối hận là chẳng có ích.

Thân thể của chúng ta giống như phật đường, có lúc tâm, khẩu, ý chẳng thanh tịnh, cũng giống như quét dọn phật đường vậy, đèn mẫu ( tâm linh ) bám phủ lên bụi trần cần phải lau chùi sạch, đèn nhật nguyệt ( đôi mắt ) triêm nhiễm vết dầu dơ cũng phải lau chùi sạch. Lúc quét dọn sạch phật đường, hồi quang phản chiếu, cảm nhận được pháp mà Sư tôn sư mẫu đã truyền cho chúng ta, người sâu xa thì nhìn thấy được cái nghĩa sâu của nó, người cạn thì nhìn thấy nghĩa cạn của nó. Từ việc lau chùi sạch phật đèn thể hội được phi lễ vật thị, thính, ngôn, động ( không hợp với lễ thì không nhìn xem, nghe, nói, hành động ), từ việc quét dọn phật đường mà lãnh ngộ được rằng cũng phải quét dọn sạch sẽ tâm địa của mình, mượn nhờ vào việc mài phẳng lò bát quái mà trong lòng lãnh hội được rằng tâm địa phải từ bi, vĩnh viễn tâm bình khí hòa, bốc lên khói cát tường.

Trong vòng những năm thiên đạo phổ truyền, trọng điểm tu trì là ở chỗ nguyện chẳng thể liễu thì khó mà về cố hương. Hãy thật tốt mà hành công liễu nguyện, độ người cầu đạo là công đức lớn nhất, cứu một mạng người hơn cả xây 7 tầng tháp, huống hồ là cứu linh tánh của người có thể thoát luân hồi, siêu sanh liễu tử. Dùng việc bố thí thất bảo của tam thiên đại thiên thế giới cũng chẳng cách nào sánh được với giá trị của nó ( trong kim cang kinh có nói ).

Nay phổ độ tam tào, ứng thời ứng vận, các đệ tử thiên đạo phải cùng gánh vác trách nhiệm trọng đại hoằng dương đại đạo, nhân lúc còn một hơi thở mà ra sức vì đạo, khai hoang độ thế, chú ý hành vi tu tâm tánh của mình, do vậy mà chẳng có quải ngại lo lắng, ở trong thuận cảnh hành nơi thuận cảnh, ở trong nghịch cảnh hành nơi nghịch cảnh ( chẳng vì thuận cảnh mà đi lên con đường ” hoa “, vì nghịch cảnh mà đi trên con đường ” tuyệt vọng ” ), vẫn gìn giữ sự mộc mạc chất phác, thường thanh thường tịnh, lấy việc ra sức độ người liễu nguyện, khai hoang bố đạo thì đã tự tự nhiên nhiên đi lên thiền định rồi, vả lại có thể chẳng khắc ý nhẫn nhục mà tự nhiên nhẫn nhục, người bình thường bị thiệt thòi thì không đòi lại sự công bằng thì không cam tâm, nhưng mà trong đạo thì lấy đạo làm tôn, lấy đức làm quý, bị người hủy báng, hiểu lầm thì chúng ta cho rằng có lẽ bình thường ( hoặc kiếp trước ) đã trục lợi từ người khác, làm cho họ thiệt thòi rất nhiều, nay người ta chỉ là đòi lại chút thôi, triêm được ơn trên từ bi, sớm ngày hóa giải, lấy lớn hóa nhỏ, trả lại cho người ta sớm một chút cũng tốt. ( Những oan khiếm của sáu vạn năm nay, một kiếp phải tu thành thì không thể không trả hết trong kiếp này được ).

Ra sức trong đạo trường, chẳng khắc ý mở ra diệu trí tuệ ( bát nhã ) mà tự nhiên mở ra diệu trí tuệ, thật sự phát ra lòng thành tâm muốn độ người nào đó, đi giảng đạo lý hơn nửa ngày trời mà vẫn chưa tự giác được mình nói thế nào mà có thể nói được nhiều như vậy, lại cái nào nói cũng có lý. Lần phổ độ này, Tam Tào toàn chấn động, có một số vị thần cõi khí thiên công quả chẳng đủ, toàn mượn nhờ nhục thể của người phàm để hành công, cho nên muốn độ người, trưng cầu hộ pháp của ơn trên, nhân cơ hội mà trợ đạo gia linh, dụng tâm thể ngộ, nói một lần cho người khác nghe, những đạo lý này bèn đi vào xương vào bụng, vĩnh viễn thuộc về bạn rồi.

Sự tinh tiến, bố thí, trì giới, thiền định, nhẫn nhục, trí tuệ ở trên là pháp lục độ vạn hạnh của thời cổ xưa tu bồ tát đạo, trước đây phải tu vô lượng kiếp mới có thể thành tựu, nay trong một kiếp này, chúng ta dốc hết sức độ người hành công, hoằng đạo cứu đời, trong sự bất tri bất giác mà tự nhiên thành tựu lục độ vạn hạnh, chẳng có khắc ý giới định tuệ thì lại thành tựu giới định tuệ, chẳng có khắc ý đi khắc chế những dục vọng riêng tư của bản thân khiến cho cử chỉ, lời nói hành động hợp với lễ tiết mà đến lúc sau cùng tự nhiên tràn đầy đạo khí, thiện khí xông thiên, bất tri bất giác mà thành tựu đạo nghiệp rồi. Đây chính là sự vĩ đại và thù thắng của thiên đạo, trong ý định vốn có ban đầu của Sư Tôn Sư Mẫu, muốn chúng ta hành công liễu nguyện, tuyệt đối có thể trở về cố hương.

Khẩu quyết : làm người làm việc phải có tâm từ bi của tổ sư chưởng thiên bàn, làm việc từ bi, nói lời từ bi, thành tựu đại gia đình thiên đạo.

Sự Thù Thắng Của Di Lặc Tịnh Độ ( 2 )

( 1 ) Dựa vào thiên thời ứng vận, thâu viên chứng phật mà nói

Thế Tôn nói như thế này với Di Lặc Bồ tát Ma Ha Tát rằng : ” Nầy Di Lặc, ta phó chúc cho ông, , mạt thế sau này hậu 500 năm, lúc chánh pháp diệt, ông nên giữ gìn bảo vệ Phật Pháp Tăng bảo, chớ để đoạn tuyệt ! ”

Phật Thích Ca Mâu Ni thọ kí dự báo Bồ Tát Di Lặc đời vị lai thành phật là điều chẳng có nghi ngờ, và cũng phó chúc Bồ Tát Di Lặc vào hậu 500 năm đời mạt thế, lúc chánh pháp diệt, phải giữ gìn bảo vệ chánh pháp của Như Lai, thúc đẩy lại đạo phong của chánh tông. Đấy là Đại Bồ Tát gánh vác trọng trách và sứ mệnh khó khăn nặng nhiều như thế. Cái thuyết ” ” hậu Năm trăm năm “, trong kim cang kinh phật cũng vài lần đề cập đến, phật rằng : sau khi đức Như Lai diệt độ, hậu 500 năm “, đấy tuy giống như là lời giả định, nhưng vô hình trung đã trở thành lời dự đoán.

Theo Kinh Đại tập đã nói cái thuyết ” ). Phật diệt độ đến nay chính là hơn 2500 năm, do đó ” ngũ ngũ bách niên ” ( hậu năm trăm năm ” mà Như Lai đã nói thật ra chính là lời dự đoán của đại đạo phổ truyền hôm nay. ( Ngũ ngũ bách niên tổng cộng chia làm 5 kì : kì giải thoát kiên cố, kì thiền định kiên cố, kì đa văn kiên cố, kì tháp tự kiên cố, kì đấu tranh kiên cố. ) 500 năm của sau 5 kì sau khi phật diệt độ

: Ngũ ngũ bách niên là 500 năm của 5 kì sau khi Phật diệt độ. Theo kinh sau khi ” Đại-tập Nguyệt-Tạng”, Phật nhập Niết-bàn, Phật-pháp sẽ lần-lượt trải qua 5 thời-kỳ kiên-cố biến-chuyển từ thịnh đến suy như sau:

1. : khoảng thời gian Giải thoát kiên cố 500 năm đầu tiên sau khi Phật diệt độ; chánh pháp thịnh , do đó mà đệ-tử của Phật có nhiều vị tu-hành được chứng-đắc, giải-thoát. Trong 100 người tu cũng có được 70, 80 người đắc quả. Trong nhơn-gian đầy-dẫy các bậc nhơn-hiền.

: khoảng thời gian Thiền định kiên cố 500 năm thứ hai ; hàng xuất-gia, tại-gia tuy ít có người chứng-đạo như 500 năm đầu, song vẫn còn thực-hành y theo lời Phật dạy, đi sâu vào trong cảnh-giới Thiền-định. Trong 100 người tu cũng có được 7, 8 người chứng quả.

: Qua đến Đa văn kiên cố 500 năm thứ ba , thì đạo-căn chúng-sanh cạn-cợt hơn trước nhiều. Đa phần chỉ ham thích học rộng nghe nhiều; giảng-kinh, các phương diện diễn dịch kinh sách, biện luận đạo lý được thịnh hành khắp nơi. Lúc nầy kẻ thiết thật cầu giải thoát thâm nhập thiền định còn ít có người, huống chi là chứng quả. Trong muôn ức người tu, họa may lắm mới có vài ba người đắc đạo.

: Sang -báo, chớ không còn cầu việc giải-thoát nữa. – Tháp Tự kiên cố qua 500 năm thứ tư (tức là 2000 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn) – Phật-giáo đồ chỉ thuần chuyên-chú vào các việc cất chùa to, tháp lớn để cầu ức-ức kẻ tu-hành, song không có một ai chứng đạo.

5. : Bước sang Đấu tranh kiên cố 500 năm thứ năm ( tức là 2500 năm sau khi Phật nhập Niết-bàn – chính là thời buổi bây-giờ đây) – Phật giáo-đồ vì ngã-chấp và tự-ái quá nặng, nên trong đạo lẫn ngoài đời thường xảy ra nhiều cảnh tranh-đua, tăng trưởng tà kiến, giết hại lẫn nhau, mà trong đạo cũng lắm kẻ chen lấn trên đường danh nẻo lợi. Giai đoạn nầy, hàng đệ-tử Phật tuy nhiều, song đối với Tam-tạng Kinh-điển ít người tin hiểu sâu, ít ai thiết thật vì đạo, đi đúng với đạo trên phương diện tự lợi lợi tha .

Kinh Phật thuyết Quán Di Lặc Bồ tát thượng sanh Đâu Suất Thiên rằng : Phật bảo ngài Ưu-ba-ly:

Tương lai Di Lặc Bồ Tát hạ sanh nơi nhân gian, khi chứng đắc A Nậu Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, thì những người thực hành như vậy có thể đích thân nhìn thấy ánh hào quang của Phật, được Phật thọ ký, đắc chứng quả phật.

Quá khứ phàm là những người đã từng nghe chánh pháp trong phật pháp của đức Thích Ca, vào thời kì Bạch Dương đều sẽ gặp được kì thâu viên của Phật Di Lặc .

Vào thời kì mạt pháp, muốn có thể làm tới giác hành viên mãn là một việc chẳng dễ dàng gì.

Bấy giờ Phật nói với Bồ tát Di Lặc: ” Này Di Lặc, nay ta đem Pháp giác ngộ vô thượng chánh đẳng chánh giác đã tập thành trong vô lượng kiếp phó chúc cho ngươi. Vào thời mạt thế, sau khi Phật diệt độ, ngươi nên dùng năng lực thần thông để giảng truyền rộng rãi những kinh như vầy nơi cõi Diêm-phù-đề, chớ để bị đoạn tuyệt. ”

Chúng sanh mạt pháp chư căn nhãn nhĩ tị thiệt thân ý, dục vọng phồn thịnh. Muốn họ đoạn dục tịnh nghiệp, tu đến nhất tâm bất loạn, lại phát tâm vô thượng bồ đề thật chẳng dễ dàng .

Căn khí của chúng sanh thấp kém, muốn vãng sanh Tây Phương tịnh độ hoặc gặp phật xuất thế đều vô cùng khó khăn, ngay cả nếu gặp được rồi thì phát tâm cũng khó.

: ” Phật thuyết Quán Di Lặc Bồ Tát thượng sanh Đâu Suất Thiên kinh chỉ cần nghe danh hiệu Phật Di Lặc mà sanh tâm cung kính, lễ bái, niệm phật hiệu của ngài, thành tâm sám hối những lỗi lầm của mình, lúc mệnh chung tức có thể thấy Phật Di Lặc . ”

Chẳng tu thiền định, chẳng đoạn các lậu : Đạo thống một mạch tương truyền đã có 64 vị phật thánh làm kiến chứng cho chúng ta.

Hạ sanh kiếp thứ hai tên gọi là Tì Kim Da Vô Cấu ( ghi chép trong Bi Hoa Kinh )

Hạ sanh kiếp thứ ba tên gọi là ( Di Lặc Bồ Tát sở vấn bổn nguyện kinh )

Hạ sanh kiếp thứ mười tên gọi là Lộ trung Nhất , đạo hiệu là Thông Lý Tử ( Chánh Tông Đạo Thống Bảo Giám ). Tổ Sư Lộ Trung Nhất sinhvào ngày 24 tháng 4 năm Đạo Quang thứ 29 đời Thanh, tại huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Đông, tịch vào ngày mồng 2 tháng 2 năm 1925 ( năm Quý Sửu ) , hưởng thọ 76 tuổi.

Lưu Bá Ôn là Tể tướng khai quốc triều Minh, cũng là tác giả “Thiêu Bính Ca”, một trong tam đại dự ngôn dân gian của Trung Quốc (cùng với “Thôi Bối Đồ” của Viên Thiên Cang, Lý Thuần Phong và “Mã Tiền Khóa” của Gia Cát Lượng). Ông đã tiên tri chuẩn xác các sự kiện chủ yếu phát sinh từ đầu triều Minh cho tới nay. Trong đó, ông và Minh Thái Tổ có một đoạn đối thoại có thể nói là đã “tiết lộ hết thiên cơ”, ứng với giai đoạn lịch sử vĩ đại hôm nay.

Hoàng Đế hỏi: ” Cuối cùng ai sẽ truyền Đạo ? ”

Bá Ôn đáp: “Có thơ làm chứng rằng:

Dự ngôn này quả là một chiếc gậy cảnh tỉnh những ai đang ở trong mê !

Lúc gặp Thanh Hư Tổ Sư để cầu đạo thì , quả nhiên đúng với lời dự đoán của Lưu Bá Ôn. ( có thể tham khảo Lộ Tổ đầu đội mũ nhung cừu Bạch Dương Tổ Sư lược truyện . )

Nếu vậy thì, những lời giáo huấn của Ngài có lẽ sẽ bị con người thời đó coi nhẹ hoặc thậm chí phá hoại, phỉ báng, từ đó khiến nhiều người bỏ lỡ Phật duyên.

Thời Đức Phật còn tại thế, hàng ngày Ngài thuyết Pháp, hướng dẫn các đệ tử đả tọa thực tu và vào trong thành khất thực. Tăng đoàn của Ngài là thể hiện rực rỡ của Phật Pháp tại thế gian. Không có chùa chiền, nhưng Ngài và các đệ tử đi tới đâu, ánh sáng giác ngộ phổ chiếu quang minh đến đó.

Phật Pháp mà Đức Thích Ca Mâu Ni truyền ban đầu không hề có hình thức tôn giáo. Sau khi Ngài nhập Niết Bàn, thuận theo thời gian, ngộ tính của con người dần bị thoái hóa. Cần có hình tượng, xây chùa chiền thì con người mới có cảm giác trang nghiêm thanh tịnh. Lòng sùng kính Phật Pháp của con người dần hòa lẫn với lòng sùng kính tôn giáo (Phật Giáo).

Kinh Phật ghi lại cuộc đối thoại giữa Phật Thích Ca và ma Ba Tuần như sau:

Ba Tuần bèn (…) Thời kỳ Mạt Pháp căn tánh chúng sanh ngày càng kém, không có năng lực biện biệt được đúng-sai, không có năng lực biện biệt được thiện-ác, đương nhiên càng không có năng lực biện biệt được thật-giả. Ta vào lúc này, sai ma con, ma cháu của Ta thảy đều xuất gia, khoác áo cà-sa của ông để diệt Phật Pháp của ông”.

Thích Ca Mâu Ni Phật nghe xong chẳng nói một câu nào, chỉ biết rơi lệ…

Kinh Kim Cương có viết: “Bất khả dĩ tam thập nhị tướng kiến Như Lai” ( không thể nhận thức đức Như Lai qua một sắc thân có ba mươi hai tướng đẹp ) và “Nhược dĩ sắc kiến ngã dĩ âm thanh cầu ngã, thị nhân hành tà đạo bất năng kiến Như Lai” (kẻ nào muốn thấy Ta qua hình sắc và âm thanh, kẻ ấy hành tà đạo, chẳng bao giờ thấy được Ta).

( Khi Bồ tát Di Lặc ứng thân làm Bố Đại Hoà Thượng tại huyện Phụng Hóa, châu Minh, thuộc đời nhà Lương, Trung Quốc, ngài có thân hình mập mạp, bụng lớn tròn đầy, với nét mặt Từ bi và lúc nào cũng nở nụ cười hoan hỷ. Trước khi nhập diệt, ngài dừng chân tại núi Nhạc Lâm, ngồi thiền trên tảng đá và tuyên đọc bài kệ trên. )

Tuy rằng Phật Thế Tôn từng dự đoán rằng ngài Di Lặc cần phải trải qua khoảng 57 ức 6 vạn năm nữa ( một thuyết khác nói là 56 ức 7 nghìn vạn năm ), tức tuổi thọ của loài người rất dài, không có các hoạn nạn và đều sống đến 84.000 năm thì ngài mới hạ sanh nhân gian và những gì đã kể ra ở trên hình như có mâu thuẫn, nhưng Phật Di Lặc đại từ đại bi, trước khi vẫn chưa đại khai phổ độ, ngài đã nhiều lần lại tái ứng hóa thân khắp đó đây nơi nhân gian, nhằm tiếp kẻ hữu duyên, đều là để làm công tác chuẩn bị cho mạt hậu thâu viên, mục đích là để người đời cầu sanh Đâu Suất Tịnh Độ , lắng nghe Di Lặc giáo hóa, dựa theo pháp tu trì, đợi công đức viên mãn, thì chứng quả nơi Vô Cực Lý Thiên, hoặc đợi đến khi tương lai Di Lặc hạ sanh thành Phật, lại theo Di Lặc hạ sanh nhân gian, khai diễn Long Hoa Tam Hội, hoàn thành sứ mệnh phổ độ thâu viên.

Có một số sách tranh luận về tịnh độ, trong đó có nói rằng tịnh độ các phương đều chẳng có sự phân giới tính nam nữ, nói cách khác thì có thể cầu sanh tịnh độ các phương đều đã đạt đến cảnh giới chí thiện, duy chỉ có Di Lặc Tịnh Độ vẫn có hình tướng của càn nam khôn nữ, vả lại lại có thể không đoạn dục nghiệp căn chướng; do những ghi chép của các sách này, có người đã dựa vào điều này mà phê bình Di Lặc Tịnh Độ là rơi tuột về sau so với các cõi tịnh độ của các phương. Trong quyển ” Phật Thuyết Kinh Quán Di-lặc Bồ-Tát Thượng Sanh Đâu-suất-đà Thiên ” có ghi chép vô số trăm ức thiên nữ với nhan sắc mỹ miều , phải chăng do vậy mà dẫn đến việc có người phê bình Di Lặc Tịnh Độ ?

Di Lặc Tịnh Độ là cõi tịnh độ do từ tâm bi nguyện của ngài Di Lặc Từ Tôn kiến thiết ở cõi trời Dục giới, ý ở chỗ độ tận hết những chúng sanh còn sót lại mà khi Thế Tôn trụ thế vẫn chưa độ hết , nhưng chúng sanh mang nghiệp vãng sanh chẳng gấp đoạn dục, do vậy mà căn chướng vẫn còn, là căn tánh vẫn chưa tịnh, phàm tướng vẫn còn là điều tất nhiên . Còn các cõi tịnh độ khác nhất định cần phải là tất cả các căn đã sạch hết, viên dung vô lậu, do vậy mà đã chẳng còn phàm tánh, do vậy cũng chẳng tồn tướng phàm, do vậy chẳng có tướng phân biệt nam nữ là điều tất nhiên. Thế nhưng không thể dựa vào điều này mà phê phán Di Lặc Tịnh Độ là không thù thắng. Vả lại Di Lặc Tịnh Độ tuy rằng có tịnh độ nam nữ cùng chỗ, nhưng đã chẳng còn chỗ tạp của sắc tướng phàm trần . Còn về việc trong cõi Di Lặc Tịnh Độ có vô số thiên nữ với nhan sắc mỹ miều là điều không sai, thế nhưng vô số những vị thiên nữ ấy là do một vị đại thần tên là Lao-độ-bạt-đề hóa ra, dùng các loại nhạc khí phối chấp, diễn pháp khai nghĩa, thân tướng và nhan sắc tuy mỹ miều nhưng lại là bảo tướng trang nghiêm giống như các vị bồ tát , chẳng có những lời nói cử chỉ cám dỗ không nghiêm túc, do vậy những người phê bình là những người đọc 3 quyển kinh chẳng hiểu sâu hiểu thấu mà dựa vào điều này làm méo mó xuyên tạc Đâu Suất Tịnh Độ.

: Kinh Phật ghi chép rằng : cần phải trải qua 56 ức 7000 vạn năm nữa ( một thuyết khác cho là 57 ức 6 vạn năm nữa ) ngài Di Lặc Phật mới có thể hạ sanh nhân gian , phổ độ chúng sanh, khai diễn Long Hoa Tam Hội, quả thật là lâu xa như vậy chăng ?

Tóm lại, chẳng cần phải tranh biện về thời gian khi nào Phật Di Lặc hạ sanh nhân gian khai diễn Long Hoa Tam Hội. Điều quan trọng nhất là chúng ta nên siêng tu hành Lục Sự Pháp, trì ngũ giới, hành Lục độ ba la mật, siêng tu thập thiện nghiệp để được vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ ( Nội Viện ), lại tiếp nhận sự điều giáo của Di Lặc Tôn Phật, sau này theo Di Lặc Tổ Sư hạ sanh nơi nhân gian, hoàn thành Long Hoa Tam Hội : sứ mệnh thần thánh ” thấy Phật, nghe pháp, chứng quả ” là hy vọng lớn nhất.

Đâu Suất Tịnh Độ thật sự là bảo tàng vô tận, . Tam Giới như nhà lửa, cõi tịnh độ duy nhất của Dục Giới ngoại trừ Đâu Suất Thiên Nội Viện ( Đâu Suất Tịnh Độ ) ra, còn lại đều là ở trong sinh tử luân hồi. Chúng ta chẳng nhanh chóng cầu sanh Nội viện thì còn đợi đến khi nào ? Lại vào lúc hiện thời mạt pháp, ma mạnh pháp yếu, những pháp môn khác đều khó thành tựu, duy chỉ có tu nghiệp Di Lặc, cầu sanh Đâu Suất Tịnh Độ, thân cận Di Lặc Như Lai là pháp môn dễ tu chứng nhất. Một kiếp thì đến nội viện , đấy quả thật là pháp môn tiện lợi nhất trong các phương tiện của người tu hành trong thời mạt pháp, là pháp môn danh bất hư truyền có thể phổ bị tam căn, quảng độ ngũ tánh ( nhân thiên thừa, thanh văn thừa, duyên giác thừa, bồ tát thừa và phật thừa ). Pháp môn vãng sanh Di Lặc tịnh độ so với những tịnh độ khác của thập phương thế giới thật sự là ” hy hữu nhất “, chắc chắn đáng tin cậy nhất.

1. Tinh tấn tu mọi công đức

2. Uy nghi không khiếm khuyết

3. Quét dọn chùa tháp sạch sẽ

4. Dùng các loại hương thơm và hoa quý để cúng dường,

5. Tu hành các loại tam-muội, thâm nhập chánh thọ

Phàm là các tín đồ phật giáo đều biết rằng có khái niệm ” cực lạc thế giới “, xuất phát từ tư tưởng ” tịnh độ “. Tư tưởng tịnh độ là sau khi Phật Đà nhập diệt ( khoảng công nguyên thế kỉ hai, ba ), Ấn Độ có một vài vị Thánh phát dương đầu tiên. Lúc bấy giờ Thế Thân Bồ Tát sáng tác ” vãng sanh tịnh độ luận “, Long Thụ Bồ Tát chủ trương, thập phương phật quốc đều có tịnh độ, chỉ cần tùy nhân duyên căn cơ của chúng sanh, nghiêm túc tu chứng tức được vãng sanh.

Sau vị hoàng đế Hán Minh Đế của nhà Đông Hán thì kinh phật liên tiếp truyền vào Trung Quốc, tư tưởng tịnh độ cũng theo đó mà truyền vào. Sau khi tư tưởng tịnh độ phát triển thì tín ngưỡng nhân gian cũng dần dần thay đổi. Vào thời đại Đông Tấn, pháp sư Đạo An dẫn đạo một số đệ tử chuyên tu ” Di Lặc Tịnh Độ “. Đệ tử của Pháp sư Đạo An là Huệ Viễn thì cực lực hoằng dương ” Di Đà tịnh độ “. Do Viễn Công cực lực hoằng dương cho nên từ sau Viễn Công thì tín ngưỡng Tây Phương tịnh độ thịnh hành trên thế gian hơn so với tín ngưỡng về Đâu Suất tịnh độ.

Đến sơ Đường ( công nguyên năm 618 ~ 712 ) , sau khi ” Tịnh Độ Thập Nghi Luận “, ” Vãng Sanh An Lạc Tập “, ” Tịnh Độ Luận ” chào đời, tư tưởng về ” Đâu Suất Tịnh Độ ” càng thêm suy tàn, vì sao vậy ? vì tác giả của 3 quyển luận này thiên vị ” Tây Phương Tịnh Độ “, trong sự có ý hay vô ý mà đã làm giảm đi giá trị chân thật, chỗ thù thắng của Đâu Suất Tịnh Độ.

Trước mắt, tín ngưỡng tịnh độ của Đài Loan thì ” Tây Phương Tịnh Độ ” có đại bộ phận người cực lực hoằng dương, do đó các tín đồ ngày càng tăng. Có một số những lời đồn của những tín đồ phật giáo chẳng rõ nghĩa kinh, chẳng phải là làm lẫn lộn chẳng rõ về Đâu Suất Nội Viện, Ngoại viện thì là cả gan giả thiết cho rằng hiện tại chưa phải là lúc tín ngưỡng pháp môn Di Lặc. Những người này đương nhiên có rất nhiều cao kiến làm cho người ta bối rối hoang mang. Những âm thanh làm xáo trộn sự nghe nhìn này nếu như không dẫn Kinh để sửa sai rõ ràng thì sự thù thắng của ” Di Lặc Tịnh Độ ” vĩnh viễn không thể hoằng dương ở đời. Loại người vọng kiến này sẽ dẫn dắt chúng sanh sai lệch, làm lỡ mất cơ hội vãng sanh ” Đâu Suất Tịnh Độ “.

Thế giới ” Chúng sanh có thể vãng sanh ở hai thế giới này mỗi người đều được ” Tây Phương Cực Lạc ” là cõi tịnh độ, ” Đâu Suất Nội Viện ” cũng là cõi tịnh độ. Tây Phương là ở ngoài thế giới sa bà, là một thế giới trong số 10 vạn ức cõi phật. ” Đâu Suất ” là trong bổn độ ( cõi này ), ” Đâu Suất Nội Viện ” thuộc cõi trời thứ 4 trong sáu cõi trời thuộc Dục Giới. bất thoái chuyển nơi vô thượng đạo ” ( nhanh chậm có khác biệt ), chẳng phải là cái mà những người thiển kiến nói : ” Vãng sanh Đâu Suất thì tương lai sau này vẫn phải đến nhân gian chịu sinh tử luân hồi. Vãng sanh Tây Phương có thể trực tu đến Bổ Xứ, chẳng cần phải chịu sinh tử luân hồi của nhân gian nữa. ”

” Có những chúng sanh nghe danh hiệu đức Phật ấy, lòng tin vui mừng nhẫn đến phát một niệm chí tâm hồi hướng nguyện cầu sanh về nước ấy, thì liền được vãng sanh ở bực bất thối chuyển, Kinh Vô Lượng Thọ Phật ” nói rằng : ” chỉ trừ kẻ phạm tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp “.

Đấy là nói rõ rằng những người được vãng sanh Di Đà Tịnh Độ tuyệt đối sẽ không thối chuyển, thế nhưng sau khi nghe kinh này, những người nguyện vãng sanh tức được vãng sanh ? đương nhiên phải xem cá nhân phải chăng là ” chuyên tâm tin ưa thọ trì đọc tụng giảng thuyết thực hành. ”

Từ nghĩa kinh của 3 đoạn trên cho thấy, những người được vãng sanh ” Tây Phương Tịnh Độ ” do tín ngưỡng, ý nguyện, giữ giới, sám hối, từng bước tiến tu, hiệu lực được vãng sanh tuyệt đối chẳng phải là lòng tin cạn mỏng thì có thể vãng sanh , tuyệt đối chớ có mà truyền sai lệch khiến cho người nghe pháp chểnh mảng biếng nhác trong việc tiến tu. Các vị nên hiểu rõ rằng những người muốn lập địa thành phật không thể không buông con dao đồ tể xuống, sau đó thật tốt mà lễ phật, sám trừ những nghiệp chướng trước kia, nếu không thì trước lúc vãng sanh mà các nghiệp hiện ra trước mắt trói buộc thân, thử xem làm sao mà thoát nổi.

Vậy thì quy y Bồ Tát Di Lặc, cầu sanh ” Đâu Suất Tịnh Độ ” phải chăng là lại thối chuyển, chịu 6 nẻo sinh tử luân hồi ?

” Phật Thuyết Kinh Quán Di-lặc Bồ-Tát Thượng Sanh Đâu-suất-đà Thiên ” nói rằng :

“Ông hãy lắng nghe! Vào đời vị lai, Di-lặc Bồ-Tát sẽ làm nơi quy y rộng lớn cho chúng sanh. Nếu có ai quy y Di-lặc Bồ-Tát, thời phải biết người này sẽ được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo . Khi Di-lặc Bồ-Tát thành bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì những người thực hành như vậy, lúc họ thấy ánh hào quang của Phật thời sẽ liền được thọ ký.”, lại nói rằng : “Đức Bồ-Tát sẽ tùy theo túc thế nhân duyên của họ mà thuyết diệu Pháp, khiến tâm người ấy kiên cố và không còn thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo . ”

Trong kinh đã nói, quy y Di Lặc, làm đệ tử của Di Lặc , sau này sau khi vãng sanh ” Đâu Suất Tịnh Độ “, chẳng những được ” bất thối chuyển nơi vô thượng đạo “, lại còn được ” thọ kí làm phật “. Sự khai thị của Phật Đà bảo đảm rằng các đệ tử có thể an tâm, nếu người nào vẫn chưa tin thì xin hãy xem quyển ” Kinh Di Lặc thượng sanh ”

Vãng sanh ” Tây Phương tịnh độ ” và ” Đâu Suất tịnh độ ” còn có một điểm chung, căn cứ vào các kinh ” tây phương tịnh độ ” thì những người tu tây phương cực lạc được vãng sanh sẽ có A Di Đà Phật, Thánh chúng bồ tát trao tay nghênh đón; vãng sanh ” Di Lặc Tịnh Độ ” cũng có nghìn đức phật trao tay nghênh đón.

” Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát ” rằng : ” Nếu có người nào thụ-trì, đọc tụng, giải nghĩa-thú của kinh, người đó khi mệnh-chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ-sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung trời Ðâu-Suất, chỗ Di-Lặc Bồ-tát ”

Nay thế giới mà chúng ta sống gọi là ” Diêm Phù Đề ” hoặc ” sa bà “, thế giới từ sanh cho đến diệt gọi là ” hiền kiếp “. Trong hiền kiếp có nghìn đức phật xuất thế, vị thứ 4 trong ” nghìn đức phật của hiền kiếp ” là ” Phật Thích Ca Mâu Ni “, vị thứ 5 là ” Phật Di Lặc “. Nay ” Phật Di Lặc ” ở ” Đâu Suất Nội Viện ” là ” Bổ Xứ Bồ Tát “, do đó ” Đâu Suất Nội Viện ” gọi là ” Di Lặc tịnh độ “. Kinh Pháp Hoa đã nói, sanh ” Đâu Suất Thiên ” tức là vãng sanh ” Di Lặc tịnh độ “.

” Phật Thuyết Kinh Quán Di-lặc Bồ-Tát Thượng Sanh Đâu-suất-đà Thiên ” nói rằng :

“Cầu sanh ” Vào đời vị lai, họ sẽ gặp hết thảy chư Phật trong Hiền Kiếp . Trong kiếp Tinh Tú, họ cũng gặp chư Phật Thế Tôn và sẽ ở trước chư Phật được thọ ký Bồ-đề.”. Bất luận ” tất cả phật mười phương ” hoặc ” nghìn đức phật trong hiền kiếp ” , phật phật đều bình đẳng. Đâu Suất Tịnh Độ ” có nghìn đức phật trong hiền kiếp trao tay nghênh đón, Di Lặc Tôn Phật phóng hào quang nghênh đón, lại còn có các vị thiên tử của Đâu Suất Nội Viện rải hoa mạn-đà-la nghênh đón, đấy thật là thù thắng biết bao.

Đâu Suất Tịnh Độ là Thánh Phàm Cộng Độ

Chúng ta là những chúng sanh trong hiền kiếp; lũy kiếp đến nay đã kết vô lượng nhân duyên oan thân. Những oan thân trái chủ này trước khi chưa giải thoát tất sẽ chịu nỗi đau khổ sanh tử lục đạo của ngũ trược ác thế, do đó họ nên nhanh chóng được tế độ ( khiến cho họ thoát khỏi biển khổ luân hồi ). Mọi người đồng tâm hiệp lực khiến cho cõi này nhanh chóng được tịnh hóa là ý niệm nỗ lực hợp tình hợp lí, do đó cầu sanh ” Đâu Suất tịnh độ ” , tương lai sau này sau khi nhân gian trở thành tịnh độ thì lại theo đức Di Lặc xuống cõi ” Diêm Phù Đề ” để độ hết những oan thân thì tu hành mới có ý nghĩa chân thật .

: có Đâu Suất ” những người cầu sanh ” Đâu Suất Tịnh Độ ” tương lai vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ tịnh độ trên trời ” và ” tịnh độ nhân gian ” của sa bà. Đâu Suất Nội Viện là nơi mà Bổ Xứ Bồ Tát của thế giới sa bà nương gá; Phật quá khứ, Phật hiện tại, Phật vị lai đều như nhau, là một loại công thức cố định. Nay Bồ tát Di Lặc là thiên chủ của Đâu Suất Nội Viện, đang vì các thiên tử và vô lượng thánh chúng thuyết pháp, xung quanh cũng có các đại bồ tát đến từ nơi khác, 500 ức thiên tử và những đệ tử tứ chúng của Phật Đà của nhân gian vãng sanh , do đó nói rằng ” Di Lặc tịnh độ ” là Thánh phàm cộng độ, bởi vì trong khoảnh khắc liền vãng sanh về trời Đâu-suất và ngồi kiết già trên hoa sen, hoa khai kiến phật.

” Phật Thuyết Kinh Quán Di-lặc Bồ-Tát Thượng Sanh Đâu-suất-đà Thiên ” nói rằng :

” Phật Thuyết Kinh Quán Di-lặc Bồ-Tát Thượng Sanh Đâu-suất-đà Thiên ” nói rằng : “Vào đời vị lai, Di-lặc Bồ-Tát sẽ làm nơi quy y rộng lớn cho chúng sanh. Nếu có ai quy y Di-lặc Bồ-Tát, thời phải biết người này sẽ được bất thối chuyển nơi Vô Thượng Đạo. Khi Di-lặc Bồ-Tát thành bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Chánh Giác, thì những người thực hành như vậy, lúc họ thấy ánh hào quang của Phật thời sẽ liền được thọ ký.”

” Kinh Di Lặc hạ sanh ” lại nói rằng : ” Phật Di-Lặc trụ thế 6 vạn năm. Ngài thương xót chúng sanh, khiến cho họ được pháp nhãn . ” ( Pháp nhãn là bồ tát sơ địa trở lên mới có, có thể thấy bổn tánh của vạn pháp – pháp tánh, đích thân chứng một phần cho đến nhiều phần của pháp thân phật ).

, chẳng cần có cảnh giới của ” Nhất tâm bất loạn ” tức có thể vãng sanh tiến vào. Người tu từ việc thấy phật sám hối, cung kính lễ bái, bát quan trai giới, hành trì thập thiện ngũ giới, pháp lục sự, căn cơ lớn nhỏ tu trì công đức chỉ cần phát nguyện hồi hướng vãng sanh, sau này nhất định được tiếp dẫn. Đâu Suất tịnh độ là Ngũ Thừa Cộng Độ Nếu như các phật tử cầu sự nhanh chóng thì vào cõi tịnh độ này cho đến tương lai sau này thành tựu bồ đề là nhanh nhất . Nếu như phật tử cầu sự chính xác thì pháp nghĩa của cõi tịnh độ này là Phật Thích Ca Mâu Ni đã bàn giao, muốn các đệ tử tứ chúng quy y Di Lặc Bồ Tát, do đó có sự bảo đảm gấp bội, chắc chắn chính xác , thế nhưng nhất định phải như pháp mà tu trì, như pháp mà hồi hướng, tuyệt đối chớ có tu trì một cách tùy tiện, cũng không được đánh giá cao về bản thân, không tự lượng sức, vọng tưởng không đâu, đấy đều là những hành vi không thực tế.

chia ra hai bộ phận và . Cõi trời Đâu Suất Đâu Suất nội viện là tịnh độ của các vị Nhất Sinh Bổ Xứ Bồ Tát hay Tối Hậu Thân Bồ Tát , nghĩa là vị Bồ Tát còn mang thân sanh tử lần cuối cùng trước khi thành Phật. Vì thế, cũng gọi Đâu Suất Tịnh Độ, Nội Viện Tịnh Độ, Di Lặc Tịnh Độ, Thiên Cung Tịnh Độ… là y báo thắng diệu của mười nghiệp lành. Cách đây hơn 2528 năm Đức Bổn Sư Thích Ca cũng từ cung trời này giáng sinh.

. Bên trong của Di Lặc nội viện là thanh tịnh tuyệt đối Có rất nhiều các vị Đại Bồ Tát đều phát nguyện vãng sanh Đâu Suất Tịnh Độ của Di Lặc Bồ Tát , đợi đến sự bắt đầu của một kiếp tới, sau khi nhân gian trở thành tịnh độ thì lại theo Di Lặc Bồ Tát hạ sanh đến cõi nhân gian này để độ thoát tất cả chúng sanh, cũng giống như các ngài A Nan và Xá Lợi Phất theo bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni vậy. Do đó mà trong lịch sử của phật giáo Trung Quốc, bắt đầu từ Đạo An pháp sư của Đông Tấn, qua Huyền Trang Đại Sư của thời Sơ Đường, Khuy Cơ Đại Sư , Thái Hư Đại Sư của thời cận đại, cho đến Từ Hàng Pháp Sư nhục thân bất hoại viên tịch tại Đài Loan vào nửa thế kỉ trước, cho đến rất nhiều những người tại gia, người xuất gia tại Trung Quốc đều là phát nguyện vãng sanh Đâu Suất Thiên, sau này hạ sanh theo Di Lặc Bồ Tát để nghe pháp học đạo.

Trong ” Kinh Di Lặc Thượng sanh ” nói rằng : Di Lặc Bồ Tát “vẫn còn là thân phàm phu và chưa đoạn hết các lậu “, lại nói rằng : ” Vị ấy hiện tại tuy đã xuất gia nhưng không tu thiền định và cũng chẳng đoạn phiền não. Tuy nhiên lại được Phật thọ ký, rằng vị này chắc chắn sẽ thành Phật “. Thật ra công đức thật sự của Bồ Tát Di Lặc chẳng phải là điều mà chúng ta có thể biết được. Sự tu hành của bồ tát trong ngũ trược ác thế nên nặng về bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, từ bi, trí tuệ. Nếu như không tu tập những công đức này, phước đức chẳng đủ, từ bi chẳng đủ, chuyên môn đi tu thiền định, đoạn phiền não là nhất định phải rơi vào tiểu thừa. Di Lặc Bồ Tát đã biểu hiện tinh thần của bồ tát, làm tấm gương mẫu mực cho những chúng sanh mạt thế, do vậy mà chẳng chuyên tu thiền định, chẳng đoạn phiền não, trái lại vì đem lại lợi ích cho người khác mà làm nhiều những công đức như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, từ bi, tinh tiến. Nếu người thật sự phát tâm bồ đề to lớn, dùng tâm từ bi để độ đời thì tuyệt đối chớ có bỏ lỡ qua cơ hội tốt học tu pháp môn Di Lặc, mới không hổ thẹn là hành vi của đệ tử phật, cũng không đi ngược với đại nguyện ” chúng sanh vô biên thệ nguyện độ “.

Di Lặc Tổ Sư thị hiện ” đều sẽ hóa cứng trong vòng 6 tiếng đồng hồ, mùa đông có thể trong vòng 6 phút thì ngưng kết rồi. từ tâm tam muội ” mà không tu thiền định, chẳng đoạn phiền não, mang thân phàm phu, chẳng dứt các lậu. Đạo thân của chúng ta lúc chết vì sao lại có thoại tướng, thân mềm như bông ? Chúng ta dựa vào nguyện lực đại từ bi của Lão Tổ Sư , chẳng quên tam bảo mà Tổ Sư đã truyền thụ lúc cầu đạo khai quang , kết hợp ” lòng tin ” và ” nguyện lực ” thì đều có thể trở về Di Lặc Tịnh Độ tiêu diêu tự tại rồi, đấy là sự thù thắng của việc chúng ta cầu đạo . Chúng ta cần chi phải đả tọa và trì niệm phật hiệu đến cảnh giới nhất tâm bất loạn ? ( Những chúng sanh mạt pháp muốn đoạn trừ các dục niệm mà trì niệm phật hiệu đến nhất tâm bất loạn quả thật là khó khăn, huống hồ con người lúc sắp qua đời đau đớn như con cua rơi vào vạc dầu sôi ). Thay vào đó, chúng ta chỉ cần thường hành công lập đức, hành Bồ Tát đạo độ người, thành toàn người, tu sửa tánh khí và những thói hư tật xấu của bản thân, thường tồn tâm tốt, nói lời tốt, làm việc tốt, siêng lễ bái sám hối, lập nguyện liễu nguyện, tuân thủ thực hành theo mười điều đại nguyện đã lập lúc cầu đạo, tuân giữ phật quy lễ tiết, tinh tấn học đạo, tu đạo, bàn đạo thì đã có thể dễ dàng vãng sanh Di Lặc Tịnh Độ rồi; nếu như công đức viên mãn thì còn có thể chứng quả ngay trong kiếp này, trở về miền cố hương Vô Cực. Đại bộ phận Bồ Tát đều thị hiện cách ăn mặc của tục gia, như đức Văn Thù, Phổ Hiền, Quán thế Âm Bồ Tát…như thế tiếp cận kết duyên rộng độ chúng sinh thành đạo càng nhanh. Nay ơn trên từ bi đại khai phổ độ, đạo giáng hoả trạch ( thứ dân ) , chính là cơ hội tốt nhất để các cư sĩ tại gia chúng ta hành bồ tát đạo, học tập noi theo tinh thần của Bồ Tát đại thừa, cứu độ chúng sanh, độ hoá tất cả bạn bè người thân cùng có cơ hội có thể liễu thoát sanh tử luân hồi, một kiếp này tu, một kiếp này thành tựu giải thoát. Di Lặc tịnh độ tức là Thiên Phật Viện ( Đâu Suất Thiên ), là trạm giữa đường của cõi Vô Cực Lý Thiên , còn chúng ta tu đạo là kiêm nhiệm nửa thánh nửa phàm, những thói hư tật xấu, tánh nóng nảy của cõi phàm vẫn chưa trừ sạch, trước hết phải trở về Thiên Phật Viện tu một phen. Người bình thường chết rồi toàn thân đều sẽ cứng đơ, bởi vì hơi thở dứt rồi thì axit lactic, đạm,

Cập nhật thông tin chi tiết về Sự Thù Thắng Của Pháp Hội @ Bạch Dương Kì Blog :: 隨意窩 Xuite日誌 trên website Getset.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!