Bạn đang xem bài viết 12 Cung Hoàng Đạo Là Loài Khủng Long Nào Đã Oanh Tạc Ở Thời Cổ Đại? được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Getset.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Vốn không được chiêm ngưỡng sự hùng vĩ của chúng ở thời quá khứ, nhưng nhờ kỹ xảo và công nghệ hiện đại, con người cũng đã mô phỏng lại các hình ảnh của chúng một cách thực tế nhất từ khung xương còn sót lại. Để hòa mình vào môi trường sống hoang dã, với những đặc điểm đặc trưng của các loài khủng long đã tiệt chủng nhưng vẫn còn nắm được thông tin, liệu 12 cung hoàng đạo sẽ là loài khủng long hung tợn hay hiền hòa?
BẠCH DƯƠNG: GIGANOTOSAURUS
Bạch Dương là Giganotosaurus
Loài khủng long này tồn tại từ khoảng 97 triệu năm về trước, thuộc họ khủng long ăn thịt và còn lớn hơn cả giống T-rex huyền thoại. Chúng rất thông minh và dữ tợn, sẵn sàng săn bất cứ con mồi nào nằm ở trước tầm nhắm của chúng. Chúng không như loài T-rex thường lặng lẽ chờ đợi thời cơ mà loài Giga này sẽ xông pha lên … một phát đớp luôn con mồi. Tựa như các Bạch Dương có tính cách bốc đồng, làm việc gì cũng mau lẹ tay chân.
KIM NGƯU: SAUROPOD
Nếu đã xem qua bộ phim Jurassic World vừa rồi thì chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên được hình ảnh chú khủng long cổ dài chân thằn lằn bị bỏ quên trên đảo đúng không nào? Loài khủng long này nổi tiếng và thường được nhiều người yêu thích bởi trông chúng có vẻ khổng lồ như thế nhưng tính cách lại vô cùng hiền hòa, thuộc loại ăn cỏ và ít khi giao chiến với loài khác. Như những người bạn Kim Ngưu vậy, ít khi gây hấn với ai và tính cách nhẹ nhàng, không sân si y như loài Sauropods.
SONG TỬ: COELOPHYSIS
Thuộc chi khủng long chân thú, tầm vóc nhỏ và mảnh khảnh. Do chúng thuộc loài ăn thịt cộng thêm với thân hình linh hoạt thì loài khủng long này rất hay nghịch ngợm trong rừng, tranh giành mồi với những con thú khác. Giống như những người Song Tử luôn nhanh nhảu, thông minh và có phần hơi gian manh nữa.
CỰ GIẢI: TOROSAURUS
Loài khủng long này khá chậm chạp bởi khung xương của nó khá nặng nề. Là giống loài ăn cỏ, khá hiền hòa chỉ trừ khi nào có kẻ đụng đến thì nó sẽ không ngần ngại mà … húc thẳng cho một cái. Tính tình cũng tựa như loài khủng long cổ dài vậy chỉ có cái là biết phản bác lại một chút. Các Cự Giải cũng vậy mà đúng không, trông có vẻ là không biết gì nhưng thật ra biết rất nhiều và chỉ cần đừng ai chọc thì bạn cũng không bao giờ nổi cáu.
SƯ TỬ: TYRANNOSAURUS
Chẳng có gì thích hợp hơn với Sư Tử là loài khủng long bạo chúa nổi tiếng T-rex cả. Là loài động vật ăn thịt và khá khỏe, dù cho thân xác bạn vẫn còn thua kém với một số loài khác nhưng cứ hễ nhắc đến thì ai cũng phải nhớ, ai cũng phải khiếp sợ.
XỬ NỮ: IGUANODON
Là loài động vật ăn cỏ lớn, thế nhưng loài khủng long này sở hữu thêm bộ phận phòng vệ đó là móng vuốt sắc nhọn của chúng. Kỷ Phấn Trắng là thời điểm mà loài khủng long này xuất hiện đại trà nhất, và đặc tính mà giống với các bạn Xử Nữ đó là khả năng thích nghi cao. Dù ở môi trường nào thì bạn đều có thể thiết lập một hệ sinh thái riêng cho mình.
THIÊN BÌNH: GALLIMIMUS
Là loài khủng long ăn thịt có tốc độ di chuyển khá nhanh nên hầu như rất ít con mồi vuột khỏi tay nó. Nói thế thôi chứ giống loài chủ yếu chỉ ăn thực vật, côn trùng và các loại động vật nhỏ, không có tính hiếu chiến. Điều khiến cho nó có thể so sánh với Thiên Bình đó là loài khủng long này thích sống bầy đàn, rất dễ bị dao động và hay bị rối loạn thông tin nếu chúng đang bất đồng về một việc gì đó.
THIÊN YẾT: VELOCIRAPTOR
Sở hữu bộ móng muốn to khỏe, loài Raptor này có thể dễ dàng hạ gục bất cứ con mồi nào mà chúng nhắm đến. Thế nhưng cũng như các Thiên Yết, không ai hiểu được rõ ràng bản tính của chúng. Khi lẽ ra với nguồn sức mạnh đó, nó có thể nhanh chóng kết liễu con mồi. Nhưng không, chúng lại đi theo dõi, rình rập con mồi đến tận trời cuối bể chỉ để chờ đợi một thời cơ thích hợp để ra tay. Quả là một giống loài có sự kiên nhẫn cao.
NHÂN MÃ: PTEROSAUR
Tên gọi tiếng Việt của chúng là Dực Long. Loài khủng long có cánh này thuộc họ bò sát và chúng có thể bay với tốc độ rất nhanh, có thể bằng một con báo hoặc hơn. Bạn có thể thấy trong các bộ phim về đề tài khủng long, Dực Long rất hay xuất hiện bởi chúng là một thành phần không thể nào thiếu và luôn xuất hiện ở mọi thời kỳ. Chúng y như các bạn Nhân Mã có cuộc đời phiêu bạt chốn giang hồ, nay đây mai đó miễn sao là mình thấy vui.
MA KẾT: SPINOSAURUS
Đây được biết đến là loài khủng long săn mồi lớn nhất, với kích cỡ to cộng thêm cái phần mai của chúng. Tuy là loài săn mồi, nhưng chúng lại di chuyển khá chậm chạp bởi trọng lượng quá cỡ của mình. Thế nên chúng chỉ có thể an nhàn, đi loanh quanh ăn các xác động vật hoặc đợi cho một con khủng long nào đang săn mồi gần đấy thì tiện thể chúng đi qua giựt luôn. Giống như các Ma Kết có vẻ hơi không được năng động cho lắm. Nhưng các bạn không vì thế mà lười biến, vẫn biết cách tự kiếm ăn cho mình.
BẢO BÌNH: TROODON
Đây là loài khủng long phải nói rằng là một bản thể hoàn hảo của các Bảo Bình thời cổ đại. Nhanh nhạy, thông minh và khó để có thể đoán được chúng đang nghĩ gì trong đầu. Loài khủng long này khá nhỏ tuy nhiên nhờ các chi nhỏ bé của mình mà chúng được bù cho khả năng ứng xử linh hoạt và không quá khó để bắt mồi.
SONG NGƯ: ARCHAEOPTERYX
Là tổ tiên của loài chim, loài khủng long này có hình dáng và kích thước gần nhất với con ác điểu thời hiện đại. Tuy thuộc họ chim với bộ lông vũ vĩ đại thế nhưng chúng lại bay … như gà, không thể bay được khoảng cách xa như những con thằn lằn bay. Lông của chúng khá đẹp tựa như những Song Ngư luôn khiến cho người khác hơi nán lại một chúng vì vẻ đẹp đến nao lòng của họ.
Mỗi loài khủng long đều có những đặc điểm và tính cách khác nhau. Có loài thậm chí còn cực kỳ thông minh. Thế nên 12 cung hoàng đạo nhân cơ hội này tìm hiểu thêm một ít về chúng cũng khá hay ho đó.
12 Cung Hoàng Đạo Đại Diện Cho Loài Vật Nào Trong Truyền Thuyết
Trong vòng tròn hoàng đạo mỗi cung sẽ là đại diện cho loài vật nào trong truyền thuyết. Cùng 12 cung hoàng đạo điểm danh những loài vật trong truyền thuyết mà bạn sẽ phải ngỡ ngàng khi biết đến.
Kim Ngưu (21/4 – 20/5) Loài vật hiện thân Rồng Vẻ nghiêm túc, ít nói ít cười của Kim Ngưu có thể khiến người khác e dè, ngại tiếp cận. Nhưng sự bình tĩnh, chín chắn của bạn lại khiến mọi người kính nể. Bạn rất trung thành và sẽ hết lòng bảo vệ những điều bạn yêu quý. Ngưu không dễ giận dữ nhưng mọi người biết không nên làm bạn nổi cáu nếu không sẽ phải chịu cơn giận nóng như lửa của bạn.
Bò Cạp (23/10 – 21/11)Loài vật hiện thân Người cá Siren Người cá Siren vốn là những sinh vật mang thân hình nửa người nửa chim và có giọng ca tuyệt vời trong truyền thuyết Hy Lạp. Khi không còn lông vũ, các Siren không bay được nữa và phần dưới dần dần biến thành đuôi cá. Họ cất tiếng hát mê hoặc để lừa những người đi biển và khiến họ tử nạn. Bò Cạp là hiện thân của Siren xinh đẹp, quyến rũ nhưng cũng đầy nguy hiểm. Bạn có tâm hồn đam mê cháy bỏng và không bao giờ từ bỏ mục tiêu. Sức mạnh to lớn và cá tính mạnh mẽ của Bò Cạp khiến người khác phải dè chừng.
Nhân Mã (22/11 – 21/12) Loài vật hiện thân Centaur (Nhân Mã) Bạn là hiện thân của niềm vui mà chỉ Nhân Mã mới có. Bạn sống vô tư, đam mê và không để cho bất ai, điều gì cản trở hạnh phúc của mình. Bạn thích sống trong thế giới đa dạng và luôn tìm cách để chiến thắng trong mọi cuộc tranh luận.
Ma Kết (22/12 – 19/1) Loài vật hiện thân Sphinx Sphinx trong thần thoại Hy Lạp cổ là sinh vật có đầu người, mình sư tử và có cả cánh. Là hiện thân của Sphinx, Ma Kết rất thần bí, suy nghĩ logic và không thích những người không cùng trình độ. Bạn dồi dào kiên nhẫn nhưng khi đã tức giận thì cơn thịnh nộ của bạn sẽ cực kỳ khủng khiếp. Trong mắt mọi người, bạn sống khá kín tiếng, nhưng đó chỉ bởi bạn chọn bạn bè một cách khôn ngoan.
Bảo Bình (20/1 – 18/2) Loài vật hiện thân Phoenix (Phượng hoàng lửa) Bảo Bình trung thành và tận tâm với những người bạn quan tâm nhất. Tính cách độc lập khiến bạn có vẻ khó đoán. Bạn luôn phấn đấu vượt lên trên những kẻ muốn chỉ huy mình đi theo hướng khác. Bạn tự do và đủ mạnh mẽ để không ai có thể ngăn cản mình.
Song Ngư (19/2 – 20/3) Loài vật hiện thân Kraken Kraken là thủy quái có những xúc tu khổng lồ chuyên đánh chìm tàu thuyền trong truyền thuyết. Là hiện thân của Kraken, Song Ngư bí ẩn, nhanh nhạy và cũng đầy sức mạnh. Bạn thích dành thời gian cho bản thân và không muốn bị quấy rầy. Song Ngư giàu cảm xúc, nhạy cảm nên tính khí cũng hơi thất thường. Chắc chắn người xung quanh nên tạm lánh khi thấy bạn có xu hướng bộc phát.
12 Cung Hoàng Đạo Nữ Giống Mỹ Nhân Nào Trong Thời Cổ?
Kim Ngưu (20/4 – 20/5)
Kim Ngưu chính là hiện thân của Tây Thi thời Xuân Thu chiến quốc. Cá tính của Kim Ngưu: ôn thuận trung thành, cần cù thực tế, coi trọng sự hưởng thụ vật chất. Còn Tây Thi thì: thân vốn là cống phẩm trong kế mỹ nhân mà Việt Vương Câu Tiễn nạp cho Ngô Phù Sai, tuyệt thế mỹ nhân, sắc nước hương trời. Nàng đã mê hoặc Ngô Vương, bỏ bê triều chính.
Song Tử (21/5 – 21/6)
Song Tử có nét tương đồng với Điêu Thuyền thời Tam quốc. Cá tính của Song Tử: phản ứng linh hoạt, khéo tài ăn nói, giao du rộng rãi, giỏi giao tiếp xã hội. Còn Điêu Thuyền lại giữ vai trò là kẻ ly gián giữa loạn thế gian hùng Đổng Trác và Lữ Bố, khiến hai người bọn họ chém giết lẫn nhau. Nàng đóng vai trò của một gián điệp xinh đẹp.
Cự Giải (22/6 – 22/7)
Bạn chính là Thường Nga, vợ yêu của Hậu Nghệ. Cá tính của Cự Giải:như vị thần bảo hộ của mặt trăng, giàu tình cảm và phong phú nhân tình thế thái, khoan dung độ lượng. Còn Thường Nga trong truyền thuyết lại là người vợ yêu xinh đẹp của Hậu Nghệ.
Xử Nữ (23/8 – 23/9)
Xử Nữ lại có nét tương đồng với Lý phu nhân thời Hán Vũ đế . Đặc tính của Xử Nữ: nghiêm túc tỉ mỉ, trong trắng, luôn theo đuổi sự hoàn mỹ. Còn Lý phu nhân đời Hán thì dung nhan kiều diễm, lạnh lùng kiêu sa. Đến khi chết nàng không muốn người khác nhìn thấy nét tiều tụy của mình.
Thiên Bình (24/9 – 22/10)
Thiên Bình chính là hiện thân của Dương Quý Phi thời Đường đấy. Đặc điểm của Thiên Bình: phong độ tao nhã, tài nghệ song toàn, giảo tài ngoại giao, trung niên dễ phát tướng. Còn Dương Quý Phi thì: ngây thơ xinh đẹp, tài mạo xuất chúng, là một mỹ nhân tài mạo song toàn.
Thần Nông (23/10 – 21/11)
Bò Cạp lại chính là hiện thân của Phan Kim Liên trong “Kim Bình Mai” và “Thủy Hử truyện” . Đặc tính của Bò Cạp: có ước muốn chiếm hữu mạnh mẽ, tính tình nóng nảy, làm việc lén lút. Còn Phan Kim Liên thì: dung nhan mỹ lệ, phong lưu đa tình, có sức hấp dẫn giống như uy lực của Bò Cạp.
Nhân Mã (22/11 – 21/12)
Nhân Mã và Vương Chiêu Quân có vận mệnh giống nhau. Đặc tính của Nhân Mã:thích tự do, tiêu diêu tự tại, có ý muốn ra nước ngoài du học. Còn số phận của Vương Chiêu Quân trước đây lại là: thân rồng phụng lại rơi vào nghịch cảnh, cống sang hồ quốc để kết thông gia.
Ma Kết (22/12 – 19/1)
Vương Ngọc Xuyến thời Đường và Ma Kết có nét tương đồng với nhau. Đặc tính của Ma Kết: chịu thương chịu khó, có tinh thần trách nhiệm, siêng năng cần mẫn, phấn đấu không ngừng. Còn Vương Ngọc Xuyến vốn là thiên kim tiểu thư của thừa tướng, gieo tú cầu để ấn định nhân duyên. Chẳng may nàng gieo vào một kẻ bần hàn, phải sống đời cơ cực. Cái này chắc chỉ hợp với mấy bạn nữ, mấy bạn nam đừng có ganh nha
Bảo Bình (20/1 – 18/2)
Bảo Bình và người yêu của Tư Mã Tương Như Trác Văn Quân có nét tương đồng. Đặc tính của Bảo Bình: luôn hướng tới những điều mới mẻ, phá bỏ truyền thống, dám thay đổi cái cũ, kiên trì với quan niệm của mình. Còn Trác Văn Quân thì lén định nhân duyên nhờ khúc “Phụng cầu Hoàng”, cùng Tư Mã Tương Như nói lời ong bướm.
Song Ngư (19/2 – 20/3)
Song Ngư và Lâm Đại Ngọc trong “Hồng lâu mộng” có nét tương quan với nhau. Đặc tính của Song Ngư: đa sầu đa cảm, dễ xúc động, có tài hoa nghệ thuật, dễ thích nghi với hoàn cảnh. Còn Lâm Đại Ngọc thì: quá ảo tưởng với khung cảnh thần tiên, mơ mộng, tài hoa có thừa nhưng tự cao tự đại, sức khỏe yếu đuối, hồng nhan bạc mệnh.
Thập Đại Mỹ Nam Đẹp Trai Nhất Thời Cổ Đại Trung Hoa
Phan An, sống trong thời Tây Tấn, được coi là người đàn ông tuấn tú nhất trong lịch sử Trung Quốc. Thậm chí người Trung Hoa còn có câu: “Dung mạo tựa như Phan An” để chỉ những người rất đẹp trai. Khi ông ra ngoài dạo chơi trên chiếc xe ngựa của mình, phụ nữ sẽ đi theo và ném hoa quả chật cứng xe ông. Vậy nên câu thành ngữ: “ném quả đầy xe” là để chỉ một người phụ nữ có tình cảm với một nam giới.
Trong cuộc sống, Phan An là một người đàn ông tốt. Ông là một nhà thơ và học giả tài năng và cưới một người phụ nữ thuộc tầng lớp cao hơn. Mặc dù Phan An được phụ nữ vây quanh khắp mọi nơi, nhưng ông vẫn luôn chung thủy với vợ mình. Sau khi vợ mất, ông đã viết ba bài thơ tựa đề ” Điệu vong thi”. Thời đó phụ nữ có địa vị thấp kém trong xã hội, nên chúng nằm trong những tác phẩm hiếm có bày tỏ sự thương tiếc một người phụ nữ.
Phan An tuy rất đẹp trai nhưng ông không được may mắn lắm. Sau khi tham gia tạo phản, ông cùng toàn bộ gia đình đã bị chặt đầu.
Vệ Giới tự Thúc Bảo, người huyện An Ấp, quận Hà Đông, là danh sĩ, mỹ nam cuối đời Tây Tấn.
Sử sách ghi chép, từ nhỏ Vệ Giới rất tuấn tú và ngoại hình nổi bật hơn người, làn da trắng như lụa, tết tóc trái đào, cưỡi xe dê vào chợ, người kinh đô kéo nhau đến xem, khen là “người ngọc”. Cậu của Vệ Giới là Vương Tế ca ngợi: “Châu ngọc ở bên cạnh, nhận ra hình dáng mình xấu xí.”
Danh vọng của Vệ Giới trong giới Thanh đàm cực cao, người đương thời xếp ông vượt trên các danh sĩ Vương Trừng, Vương Huyền và Vương Tế, sánh với Nhạc Quảng, Vương Đôn thậm chí còn sánh ông với Hà Yến, Vương Bật.
Tuy vậy, Vệ Giới có cái chết vô cùng kỳ quặc, chết vì…đẹp. Tương truyền, trong một lần chàng đi du ngoạn, Vệ Vương Giới bị vô số cô gái đi theo “rình rập” ngày đêm. Điều này đã khiến mỹ nam bị làm phiền mà mấy ngày liền ăn ngủ không yên, được vài hôm thì sinh bệnh nặng mà qua đời. Sau khi Vệ Giới mất, Tạ Côn thương khóc thảm thiết. Nhiều năm sau, Vương Đạo đề nghị cải táng cho chàng, nhằm lấy lòng các danh sĩ chạy nạn sang miền nam. Danh sĩ đời Đông Tấn là Lưu Đàm, Tạ Thượng cho rằng Vệ Giới ở tầm quá cao so với Đỗ Nghệ.
Có rất ít thông tin đáng tin cậy về tiểu sử của Tống Ngọc. Nhà thơ nổi tiếng này thường được biết đến là học trò của Khuất Nguyên, một trong những nhà thơ nhà yêu nước vĩ đại trong lịch sử Trung Quốc. Ông là tác giả của nhiều bài trong tập thơ Sở từ. Mặc dù được nhà Vua đánh giá cao tài năng văn chương, ông vẫn bị các quan trong triều đố kị vu khống. Ông đã từ quan trở về quê nhà, và qua đời tại đó.
Cao Trường Cung nguyên tên Túc lại có tên là Cao Hiếu Quán, biểu tự Trường Cung, là một tướng lĩnh, hoàng thân nhà Bắc Tề, mỹ nam nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc. Dân gian thường gọi ông với vương hiệu là Lan Lăng Vương.
Lan Lăng Vương sinh ra trong một gia đình có truyền thống mưu dũng. Vì có dung mạo đẹp tựa tiên tử, môi hồng răng trắng, không phù hợp với chiến trường, nên Lan Lăng Vương luôn đeo chiếc mặt nạ quỷ khi ra trận. Lan Lăng Vương khí chất, anh dũng, làm xiêu lòng không biết bao thiếu nữ, kể cả người chưa biết mặt chàng.
Đẹp trai lại tài giỏi, lại sinh ra trong một gia đình thanh thế võ nghệ gắn liền với chiến công bảo vệ giang sơn, cứ tưởng chàng sẽ có một cuộc đời đầy danh vọng, tiếng tăm cho đến khi xuôi tay nhắm mắt. Nhưng không, cuộc đời của Lan Lăng Vương cũng có một kết cục bi thảm không kém Phan An khi bị hoàng đế Cao Vỹ hiểu nhầm là có ý làm phản, nên chàng đã bị giết chết khi mới ở độ tuổi tam thập.
Kinh Thi từng có câu: “Núi cao có phù tô, vùng trũng có hoa sen. Không gặp được Tử Đô, chỉ gặp kẻ cuồng dại”. Câu này có nghĩa là: một người con gái hò hẹn với một chàng đẹp trai nào đó, nhưng cô cứ chờ mãi mà bóng hình chàng trai kia chẳng thấy đâu, chỉ gặp một lão già ngốc nghếch. Trong bài thơ này, “Tử Đô” được dùng làm đại từ thay thế cho chàng đẹp trai, hoặc cũng có thể nói rằng, Tử Đô là đối tượng hẹn hò giả tưởng và là một bạch mã hoàng tử của hầu hết các thiếu nữ (không loại trừ nam thiếu niên) của nước Trịnh. Các thiếu nữ cho rằng, nếu có thể gặp được chàng Tử Đô đẹp nhất nước thì đó là điều vinh hạnh; để có thể gặp được chàng, các cô gái thậm chí đã không tiếc mấy giờ đồng hồ ra đứng đợi trông. Từ đó có thể thấy rằng, khi chưa nhìn thấy Tử Đô mà lại gặp ngay một lão ngốc nghếch thì các cô gái sẽ đau buồn, ai oán và bi thương đến nhường nào.
Sách Mạnh tử lại viết: “Nói đến Tử Đô, trong thiên hạ này không ai không biết đến vẻ đẹp của chàng. Ai không biết đến vẻ đẹp của Tử Đô thì chẳng khác gì là kẻ đui mù”. Ngay đến một Á thánh miệng lúc nào cũng nói đến nhân nghĩa như Mạnh tử cũng bảo như thế thì cũng đủ thấy Tử Đô quả thực là một đại mỹ nam rồi. Vậy thì, một đại mỹ nam Tử Đô gây chấn động thiên hạ này cuối cùng là người như thế nào, làm sao mà chàng lại có một mị lực khiến các cô gái trong thiện hạ phải điên cuồng như vậy?
Tử Đô, người nước Trịnh thời Xuân thu Chiến quốc, tên thực là Công Tôn Yên, Tử Đô là tên chữ. Tử Đô không chỉ có tướng mạo đẹp đẽ mà còn đầy võ nghệ, rất thiện xạ, vì thế mà làm chức Đại phu dưới thời Trịnh Trang Công. Chỉ có điều là, Tử Đô tuy người đẹp đẽ nhưng tính lại ích kỷ nhỏ nhen. Tả truyện, Ẩn công thập nhất niên có ghi chép về câu chuyện: vì tranh xe mà chàng đã bắn chết Kỷ phương đại tướng Dĩnh Khảo Thúc; từ điểm này có thể thấy rằng, Tử Đô vẫn còn thiếu lòng khoan dung và khí khái anh hùng cần phải có của một bậc đại trượng phu.
Tuy còn mắc phải khuyết điểm như vậy, nhưng Tử Đô vẫn là một đại mỹ nam vang danh khắp nơi, dung mạo của chàng không những làm chấn động giới thống trị (đại diện là Trang công), mà còn khiến cho đông đảo dân chúng (đại diện là phụ nữ nước Trịnh) và người đời sau (đại diện là Mạnh tử), họ cũng đều vì điểm này mà liệt Tử Đô vào danh sách của các mỹ nam.
Khi Tống Văn Công khi chưa làm quốc vương thì chàng là công tử của nước Tống, được gọi là Công tử Bào.
Nếu theo lẽ thông thường thì chàng vốn là chưa đến lượt làm quốc vương, mà có thể sẽ chỉ là một công tử sống một đời an nhàn. Nhưng lý do gì đã khiến lịch sử có sự phát triển bất thường như thế, khiến một Công tử Bào có thể ngồi lên ngôi báu của quốc vương nước Tống? Nguyên nhân ở đấy chình là vì chàng rất đẹp trai!
Có phải chỉ vì chàng đẹp trai mà từ một Công tử Bào đã biến thành một Tống Văn công? Nhưng sự thật lại là như thế, tuy rằng quá trình này hoàn toàn không đơn giản và dễ dàng chút nào. Vậy thì tại sao lại có thể xuất hiện một câu chuyện thoạt nhìn có vẻ hoang đường đến vậy? Đó là vì có một người phụ nữ đã yêu chàng. Người phụ ấy không phải là người xa lạ, mà đó là mẹ kế của chàng – phu nhân của Tống Tương Công – em gái của Chu Tương Vương, tên là Vương Cơ.
Tả truyện, Văn công thập lục niên chép rằng: Công tử Bào là một đại mỹ nam vô cùng tươi đẹp, vì thế mà lọt vào mắt xanh của Vương Cơ, một goá phụ trung niên sống cô độc trong chốn thâm cung nhưng khó lòng chịu sự cô tịch, và bà ta rất muốn cùng chàng tư thông. Nhưng nếu chàng không đồng ý thì làm thế nào? Vương Cơ bèn vắt óc ra trăm phương ngàn kế để lấy lòng Công tử Bào: “Công tử Bào không muốn ban bố ơn huệ cho người trong nước đó sao? Vậy thì, hãy để ta giúp chàng, có đồng ý không? Nếu vẫn chưa đồng ý, thế thì ta cam tâm hiến dâng giang sơn nước Tống này cho chàng vậy!”
Năm Chiêu công thứ chín, Tống Chiêu Công ra ngoài săn bắn, đây quả tình là một cơ hội mà ông trời đã dành tặng cho Vương Cơ, bà ta bèn phái người ám sát Chiêu công, rồi lập em trai của Chiêu công là Công tử Bào lên ngôi vị quốc vương. Một câu chuyện thần thoại vang danh thiên cổ do đẹp trai mà được nước vì thế mà đã thành sự thật. Theo Tả truyện, việc Chiêu công đi săn chính là do Vương Cơ xúi giục; hơn nữa, Chiêu công cũng dư biết rằng Tương phu nhân sẽ giết mình, nhưng đành xuôi theo số phận, chỉ biết khoanh tay chờ chết. Điều đó cũng chứng minh rằng, Chiêu công đã bị Tương phu nhân khống chế, việc Vương Cơ dâng hiến nước Tống cho Công tử Bào quả là chuyện dễ như trở bàn tay.
Một người đẹp trai đến nỗi đã khiến cho mẹ kế xiêu lòng và muốn tư thông như Tống Văn công cuối cùng còn là một người như thế nào ngoài vẻ đẹp trai của mình? Đó là một người có thể nói là tốt, ít nhất là tốt hơn so với người anh trai mang tiếng là “vô đạo” của mình – Chiêu Công. Tả truyện viết rằng, chàng là người rất giữ chữ lễ, Sử kỳ cũng chép rằng, chàng hiền lương và khiêm tốn, đương nhiên đó là những thái độ mà một Công tử Bào cần có khi muốn mua chuộc lòng
Thời Chiến quốc, Trâu Kỵ là một người đẹp trai rất nổi tiếng của nước Tề. Thân cao (hơn 8 thước), dung mạo đẹp đẽ. Vẻ đẹp của chàng không chỉ là ở ngoại hình, mà chàng còn là người rất có chiều sâu trong tư tưởng. Nhưng cũng chính là do chàng quá trầm tư nghĩ ngợi mà gặp phải bất hạnh, vì những người thường hay nghĩ ngợi sẽ là người đau khổ hơn so với người bình thường. So với ngoại hình, Trâu Kỵ thích người ta chú ý đến con người bên trong của mình hơn, ví dụ như chàng muốn người ta khen ngợi chàng về tài năng thơ ca, văn chương, cách ăn nói vân vân.
Tương truyền đương thời, Trâu Kỵ luôn mơ mộng rằng sẽ có một cô gái xinh đẹp tuyệt trần đến gánh vác nỗi khổ não thay cho chàng. Mỗi sáng sớm, sau khi thức dậy, mỹ nam nước Tề này bèn đứng trước chiếc gương đồng mà thầm hỏi một cách u uất: Hỡi gương thần gương thần, hãy nói cho ta biết, ai là người đàn ông đẹp nhất nước Tề? Gương thần luôn áy náy mà bảo với chàng: Thật là đáng tiếc, hỡi chủ nhân của tôi, cho đến nay thì người vẫn là người đàn ông đẹp nhất nước Tề. Khi gương thần trả lời xong, gương luôn thấy Trâu Kỵ khóc nức lên một cách rất thương tâm, như mưa tháng ba đang lất phất từng hạt. Cho đến một ngày nọ, gương thần đột nhiên nói với Trâu Kỵ rằng: Hỡi chủ nhân của tôi, cuối cùng thì người không còn là người đàn ông đẹp nhất nước Tề. Nay có một người đàn ông tên là Từ Công ở thành phía Bắc, hắn mới là người đàn ông đẹp nhất nơi đây.
Ngày hôm ấy, Trâu Kỵ cảm thấy rất hạnh phúc, nhưng hạnh phúc ấy đến quá đột ngột khiến chàng không tin vào tai mình được. Vì thế nên chàng mới hỏi vợ của mình: ” Giữa ta và Từ Công ai đẹp hơn?” Người vợ đáp: “Từ Công sao có thể sánh với chàng được? Thật giống như một quả cà đem sánh với quả anh đào vậy!” Trâu Kỵ lại hỏi tiểu thiếp, thiếp trả lời: “Từ Công sao có thể sánh với chàng được? Thật giống như một con cun cút đem sánh với con nhạn trên núi vậy!” Trâu Kỵ lại hỏi một môn khách, khách đáp: “Từ Công sao có thể sánh với chàng được? Thật giống như cỏ đuôi chó đem sánh với cây vân bân vậy!” (Vân bân một loại cây có gỗ tốt và đẹp).
Vài ngày sau, Trâu Kỵ trông thấy người đàn ông mà trong mắt mọi người là không thể sánh với mình. Trâu Kỵ suy tư, trầm ngâm phút chốc rồi bắt anh ta đi đến hoàng cung. Trâu Kỵ và Tề Uy Vương vừa uống rượu vừa trò chuyện, Trâu Kỵ bèn nói: “Đại vương, thần vốn không đẹp bằng Từ Công, nhưng vợ của thần muốn thần mua quả anh đào cho cô ấy; thiếp của thần muốn thần mua thức ăn lạ cho cô ấy; môn khách của thần muốn thần cho hắn ta vài súc gỗ quý để làm nhà, nên tất cả đều bảo Từ Công không đẹp bằng thần. Nhưng thực ra, nếu đem thần ra mà sánh với Từ Công thì thần chẳng khác gì quả cà, con chim cun cút, cỏ đuôi chó vậy, điều này đã chứng minh rằng họ đã che giấu thần. Đại vương, nếu từ việc này mà nói đến đạo trị quốc thì…”
Tề Uy Vương nghe Trâu Kỵ bảo thế cũng chìm đắm vào trong suy nghĩ. Hôm sau, Tề Uy vương triệu Trâu Kỵ vào diện kiến, nói với Trâu Kỵ một cách rất bí mật: “Ái khanh, khanh lại là một người đẹp nhất nước Tề đấy!” Trâu Kỵ không hiểu thế nào, bèn hỏi: “Tại sao thế?” Tề Uy vương cười nói: “Quả nhân đã huỷ dung nhan của tên Từ Công ở thành phía Bắc rồi, bây giờ thì bọn thê thiếp của khanh có khen khanh đẹp trai thì đương nhiên là nói đúng sự thật về khanh rồi!”
Người ta bảo rằng vì chuyện này mà Trâu Kỵ trở nên điên loạn. Tương truyền có người từng gặp chàng, thì thấy chàng đã trở nên ngờ ngệch, chỉ nói đi nói lại một câu: “Ta chỉ muốn là một người biết suy nghĩ thôi mà!”
Hàn Tử Cao, người Sơn Âm, Cối Kê, Lương Triều, xuất thân từ tầng lớp hạ tiện, phải mưu sinh bằng nghề làm giày dép. Tương truyền, chàng có “diện mạo đẹp đẽ, khiết bạch sáng tươi, tựa như người ngọc. Tráng vuông tóc mượt, mày tằm tự nhiên, ai thấy đều mến”. Tử Cao sinh ra trong thời loạn quân, kẻ địch mặc sức huơ chiếc thương dài mà chém giết điên dại, nhưng khi nhìn thấy Hàn Tử Cao thì lại vứt bỏ binh khí trong tay, lại chẳng có ai nỡ lòng sát hại chàng, dù là một sợi tóc. Sử viết rằng: Lính cuồng huơ thương sắc nhưng vì lòng bất nhẫn nên chỉ huơ xuống nửa chừng, có tên lại giúp chàng vượt ra xa. Từ đó có thể thấy Hàn Tử Cao đẹp đến mức nào. Không chỉ có khuôn mặt đẹp mà chàng có thân hình cao dong dỏng, đôi tay dài, thiện việc bắn tên cưỡi ngựa, dáng hình tuấn tú, da thịt đầy mị lực, quả thực là rất đỗi đẹp đẽ, khiến người ta không thể quyến luyến. Có biết bao nhiêu thiếu nữ, trong đó có cả công chúa Trần Triều, họ đều thương thầm Tử Cao đến si dại, đêm ngày tưởng nhớ khiến ho ra máu mà chết.
Nhưng Hàn Tử Cao lại cam tâm hạ mình hầu hạ Trần Văn đế Trần Tây của Nam triều (đây là một người đồng tính luyến ái), họ ăn cùng mâm, ngủ cùng giường, ngày đêm không cách xa nhau. Và lại do một lời của Tử Cao, Trần Tây đã nổi giận và tiêu diệt cả dòng họ Vương Tư Mã, cuối cùng đã tạo nên kết cuộc triều Lương bị diệt vong và triều Trần được kiến lập. Trong lịch sử Trung Quốc, đây là một câu chuyện độc nhất vô nhị nói về một người vì cuộc tình đồng tính mà dẫn đến cuộc biến loạn vương triều. Lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc, Hàn Tử Cao là người đề xướng ra khái niệm nam hoàng hậu, tuy rằng chưa trở thành hiện thực, nhưng sự thật về sắc đẹp khuynh thành của Hàn Tử Cao lại không thể phủ nhận. Khi Trần Tây bị bệnh, Tử Cao đã hầu nước bưng thuốc, giây phút không xa, khiến cho Trần Tây được an ủi rất lớn trong những giờ phút sắp lìa đời. Tất cả mọi người trong một hoàng cung rộng lớn đều bị đuổi ra ngoài cửa, chỉ riêng Hàn Tử Cao được hầu hạ Trần Tây, sống qua khoảng thời gian cuối cùng của hai người. Sau khi Trần Tây mất, Tử Cao bị ban cho tội chết, khi ấy chàng chỉ mới 30 tuổi.
Lữ Bố, tên chữ là Phụng Tiên, người Cửu Nguyên, quận Ngũ Nguyên thời Tam quốc, làm quan đến chức Ôn hầu, thân thể cao lớn (ước trên một mét chín), tướng mạo anh tuấn, võ nghệ cao cường. Không những quần áo hoa lệ, Lữ Bố còn rất thích khoe mã. Mỗi khi đi ra ngoài là chàng “phong thái hiên ngang, uy phong lẫm liệt, tay cầm chiếc họa kích Phương Thiên, mắt long lên mà nhìn”, quả thực là rất nam tính. Chàng thường cầm một chiếc hoạ kích trong tay, ngồi trên con ngựa quý Xích Thố, đi khắp nơi để tán gái, người đương thời thường nói “trong nhân gian có Lữ Bố, trong loài ngựa có Xích Thố”. Gái đẹp phần nhiều tự yêu mình, trai đẹp cũng không ngoại lệ. Khi làm thuộc hạ của Đinh Nguyên, Lữ Bố cũng “kết tóc đỉnh đầu đội mũ vàng, khoác áo chiến bào Bách Hoa, mình mang áo giáp Đường Nê, buộc thắt lưng sư tử báu”, trông rất có dáng. Sau khi về với Đổng Trác, Lữ Bố cũng đua đòi xa xỉ: “Đầu đội mũ vàng tía, tóc kết làm ba, mình khoác áo bào Bách Hoa bằng gấm đỏ của Tứ Xuyên, mang áo giáp có hình mặt thú nuốt đầu liên hoàn, buộc thắt lưng sử tử Giáp Linh Lung”, trông như một vị vua trên thiên đình, khiến ngay cả đại mỹ nhân Điêu Thiền (thường gọi là Điêu Thuyền) cũng phải động lòng.
Lữ Bố không chỉ thạo về việc dùng hoạ kích, chàng còn rất thiện việc bắn tên, đây cũng chính là ngón nghề mà chàng rất tự hào. Võ nghệ chàng cao siêu, ba người Quan Vũ, Trương Phi, Lưu Bị liên thủ lại thì mới có thể miễn cưỡng thắng được chàng. Luận về võ nghệ cá nhân, vào thời Tam quốc thì chàng quả là vô địch thiên hạ.
Nhưng đây lại là người thường hay phản phúc, vô nhân nghĩa, tráo trở đa đoan. Đầu tiên, Lữ Bố bái Đinh Nguyên làm nghĩa phụ, nhưng một kẻ bị chàng “trừng mắt mà nhìn” như Đổng Trác chỉ cần dùng con ngựa Xích Thố và ngọc đới Kim Châu để ra lệnh chàng giết Đinh Nguyên và theo về Đổng Trác thì chàng lại tuân lời. Điều này cũng không thể trách cứ Lữ Bố, vì chàng vốn xuất thân từ gia đình nghèo khổ, ngoài võ công vô địch thiên hạ ra thì chàng chẳng có một thứ gì. Chàng chẳng khác gì một tuyệt thế giai nhân xuất thân từ tầng lớp bình dân vậy, khi đối mặt với một kẻ dùng tiền tài và của cải để khuyến dụ chàng, thì trên thế gian này có mấy ai lại không vứt bỏ tình xưa? Sau khi Lữ Bố trở thành thuộc hạ của Đổng Trác, do tư thông với Điêu Thiền, sợ việc xấu bị phơi bày nên đã cùng với Tư Đồ Vương Duẫn cùng nhau mưu sát Đổng Trác. Khi Thào Tháo chinh phạt Từ Châu, Lữ Bố nhân cơ hội đã tiến hành đánh úp căn cứ địa của ông ta, sau lạ nhiều lần tác chiến với Tào Tháo, sau do tên thủ hạ là Hầu Thành làm phản nên Lữ Bố đành phải đầu hàng.
Ở lầu Bạch Môn, Lữ Bố bị bắt giữ. Lưu Bị nói với Tào Tháo rằng: “Ông không thấy câu chuyện của Đinh Nguyên, Đổng Trác đấy sao?” Kỳ thật, Lưu Bị biết rằng mình đố kỵ với Đinh Nguyên, Đổng Trác, bởi vì bản thân Lưu Bị cũng muốn có được Lữ Bố. Lữ Bố quả thực rất đẹp, vẻ đẹp hoàn hảo ấy khiến người ta yêu mến thắm thiết, mà yêu mến tất sẽ khiến người ta mù quáng. Ông ta biết rằng bất kỳ ai có được Lữ Bố cũng đều sẽ dành trọn tình cảm của mình cho Lữ Bố, một anh hùng như Tào Tháo cũng không ngoại lệ (có thể thấy được điểm này khi ông ta đối đãi với Quan Vũ sau này). Nếu như thế, Tào Tháo có thể sẽ tiếp gót theo Đinh Nguyên, Đổng Trác về nơi chín suối, bản thân của Lưu Bị sẽ hạ được một đối thủ cạnh tranh lớn nhất ở đất Trung Nguyên, và Lữ Bố cũng sẽ không chết. Nhưng Lưu Bị cũng không thể đành lòng để Tào Tháo giành lấy Lữ Bố. Cái mà Lưu Bị không có được thì người khác cũng đừng mong có được. Đây chính là logic của Lưu Bị, vì thế mà ông ta càng muốn Lữ Bố phải chết. Riêng về Thào Tháo, tuy rằng rất muốn có được Lữ Bố, nhưng bản thân ông ta cũng không muốn trở thành Đinh Nguyên, Đổng Trác thứ hai, lại đành phải giết Lữ Bố. Xem ra, “hồng nhan bạc mệnh” không những được dùng để chỉ số phận của các mỹ nữ, mà nó còn sử dụng rất thích hợp cho đệ nhất mỹ nam thời Tam quốc này.
Kê Khang, tên chữ là Thúc Dạ, người huyện Chí, quận Tiêu (nay là huyện Túc tỉnh An Huy), là nhân vật lãnh tụ trong nhóm “Trúc lâm thất hiền”. Kê Khang chính là một nhà tư tưởng, một thi sĩ và một nhạc sĩ nổi tiếng của thời Nguỵ mạt (thời kỳ Tam quốc), đây còn là một nhân vật đại diện cho trường phái huyền học đương thời. Kê Khang mồ côi cha từ bé, nhưng nhân cách đáng kính hơn người: lòng thẳng thắn cương trực, cần mẫn học hành và có chí hướng của chim hồng chim hộc. Sau Kê Khang cưới cháu của Tào Tháo (con gái của Tào Lâm) làm vợ. Khi họ Tào vẫn đang nắm quyền thì Kê Khang đã làm quan đến chức Trung tán đại phu.
Kê Khang là một tác gia rất hiếm thấy của Trung Quốc cổ đại, vừa tinh thông văn học, huyền học và âm nhạc, lại vừa anh tuấn, phong độ. Người ta đã hình dung về Kê Khang như sau: “uy phong như con rồng, tư thái như con phượng, thiên chất rất tự nhiên”. Sử chép rằng, Kê Khang “thân cao bảy thước tám tấc, phong thái cao nhã, những người gặp chàng đều khen rằng: phong độ tự nhiên, sảng khoái rất mực, cử chỉ thanh thoát. Hoặc bảo rằng: Phong độ như ngọn gió dưới tàn thông, thanh cao mà từ tốn”. Để minh chứng cho nhận định này là một câu chuyện sau: một lần Kê Khang vào rừng sâu hái thuốc, có một tiều phu trông thấy bèn ngờ chàng là thần tiên hạ phàm, chỉ vì phong thái của Kê Khang quả thực chẳng thể nào nhầm lẫn với người thường được.
Kê Khang rất yêu thích âm nhạc, trong bài tựa “Cầm phú”, chàng nói rằng: “Từ nhỏ ta đã yêu thích âm nhạc rồi, khi lớn lên thì tìm tòi học tập, bởi lẽ rằng vật có lúc thịnh lúc suy nhưng riêng âm nhạc thì không hề thay đổi; mùi vị có thể ngấy nhưng âm nhạc thì không chán”. Đối với đàn và nhạc truyền thống lẫn đương đại, Kê Khang đều rất quen thuộc, điều này có thể thấy được trong bài “Cầm phú” của chàng.
Theo ghi chép của Lưu Tịch trong “Cầm nghị” thì, Kê Khang đã học được “Quảng Lăng Tán” từ con trai của Đỗ Quỳ là Đỗ Mãnh. Kê Khang rất thích nên thường xuyên đàn khúc nhạc này, đến nỗi có rất nhiều người đến xin học nhưng chàng nhất quyết không truyền lại. Sau khi dòng họ Tư Mã lên nắm chính quyền, chàng không muốn hợp tác vớI kẻ thống trị mới này, bèn cùng Nguyễn Tịch, Hướng Tú, Sơn Đào, Lưu Linh, Nguyễn Hàm , Vương Nhung kết làm “Trúc lâm thất hiền”, đối kháng với dòng họ Tư Mã. Sau bị họ Tư Mã sát hại, khi mất chỉ mới bốn mươi tuổi. Trước khi hành hình chàng, có đến ba ngàn thái học sinh đến cầu xin cho chàng nhưng cuối cùng cũng không có kết quả. Trước khi chết, chàng gảy lại khúc nhạc này, đồng thời thở dài và bảo rằng: “Quảng Lăng tán nay đành mất rồi”. Ngày nay, khi khai quật mộ phía nam của cầu Tây Thiện, Nam Kinh, người ta tìm thấy bức gạch có vẽ hình Kê Khang, trong đó khắc hoạ hình ảnh của một Kê Khang đang ngồi khảy đàn, cốt cách hiên ngang mà thanh thoát.
Kê Khang lại là người có đường nhân duyên rất tốt. Vương Nhung bảo rằng, kết giao với chàng trong suốt 20 năm mà chưa từng lúc nào thấy chàng tỏ vẻ khó chịu ra mặt, chính vì thế mà người đương thời truyền với nhau về chàng bằng một cái mỹ danh: “ý tứ xa xôi, tâm tính khoáng đạt”. Nhưng Kê Khang lại có lòng dạ cương trực, căm ghét cái xấu, thẳng thắn ngạo nghễ, hễ gặp chuyện thì bộc phát… Bài văn nổi tiếng “Thư tuyệt giao với Sơn Cự Nguyên” cùng với niềm đam mê đối với khúc Quảng Lăng tán của chàng chính là sự thể hiện một tính cách căm ghét thói đời, ngạo nghễ bất khuất của chàng. Cũng chính vì thế mà chàng khinh thường Tư Mã Chiêu, khiến chàng phải gặp hoạ sát thân, đây cũng chính là một ví dụ điển hình của tính cương trực, không a dua, xu nịnh kẻ nắm quyền.
Loài Sư Tử Lớn Nhất Thế Giới Bị Người Cổ Đại Tận Diệt
Sư tử hang động, loài sư tử lớn nhất từng sống trên Trái Đất, có thể rơi vào cảnh tuyệt chủng do bị con người săn lấy da vào thời Đồ đá.
Nghiên cứu mới của các nhà khoa học Tây Ban Nha chỉ ra con người có thể là nguyên nhân dẫn đến sự tuyệt chủng của loài sư tử hang động (Panthera leo spelaea), theo Independent. Sư tử hang động là sinh vật đáng sợ thời tiền sử, có thể dài tới 3,5 mét, nhưng đã tuyệt chủng cách đây khoảng 10.000 năm.
Sư tử hang động là loài sư tử lớn nhất từng sống trên Trái Đất. (Ảnh: WordPress).
Trong báo cáo công bố hôm qua trên tạp chí PLOS One, nhóm nghiên cứu do Marián Cueto ở Đại học Cantabria đứng đầu, phân tích 9 mẩu xương ngón chân sư tử hóa thạch tìm thấy trong hang động ở tỉnh La Garma phía bắc Tây Ban Nha. Họ phát hiện phần lớn mẫu xương có dấu hiệu chịu lực tác động của công cụ đá. Những thợ săn thời Đồ đá có thể đã dùng công cụ để lột da con vật nhưng vẫn giữ phần móng gắn liền với da lông.
Theo Cueto, cả 9 mẩu xương ngón chân đều thuộc cùng một con sư tử hang động. “Con sư tử có thể đã bị lột da và lông để phủ lên sàn hang hoặc kết cấu nào đó. Vị trí những vết cắt và dấu tích cạo cho phép chúng tôi suy luận quá trình này do người có kinh nghiệm và hiểu biết về mổ xác động vật thực hiện”, Cueto nói.
Hang La Garma ở phía bắc Tây Ban Nha. (Ảnh: Mogaz News).
Những hình vẽ đầu thời Đồ đá trong hang La Garma mô tả sư tử ở vị trí nổi bật, cho thấy tầm quan trọng của loài vật này trong đời sống con người. Cách thần thoại hóa con mồi nguy hiểm này có thể là bằng chứng về tập quán săn và lột da sư tử của người cổ đại, Cueto cho biết.
Đại Đường Song Long Truyện
HỒI 702 Ác Quán Mãn Doanh Đoàn Ngọc Thành chợt xoay người, bước xăm xăm ra cổng. Hứa Khai Sơn hai mắt lộ sát cơ, Từ Tử Lăng thong dong tiến về phía trước, ngầm nắm chặt thủ ấn, lập tức khóa chặt Hứa Khai Sơn, nếu y chỉ hơi nhúc nhích, gã sẽ sử dụng đòn sấm sét đánh trọng thương y trước khi y đả thương Đoàn Ngọc Thành. Hứa Khai Sơn lập tức cảnh giác, liền vận công đối kháng. Đoàn Ngọc Thành nhìn thẳng vào đôi mắt sâu thẳm của Tân Na Á, sau đó thong thả lật tấm khăn trùm đầu lộ ra hoa dung quyến rũ của nàng. Khuôn mặt Tân Na Á tái nhợt không có một chút huyết sắc, đôi làn môi mấp máy tựa như muốn nói gì đấy nhưng lại thôi. Từ Tử Lăng thầm than, Tân Na Á nhiều lần che giấu chân tướng với Đoàn Ngọc Thành, lừa gạt ly gián hắn, nhưng bây giờ thấy tình cảm của nàng đối với Đoàn Ngọc Thành, rõ ràng là nàng đang yêu, không còn nghi ngờ gì nữa. Chính vì sợ Đoàn Ngọc Thành từ yêu chuyển sang hận, lúc này trong tâm nàng sanh đại lọan, không còn tự chủ, mất đi vẻ lạnh lùng, kiêu ngạo vẻ bình thường. Hành vi bất nghĩa đương nhiên là một nguyên nhân khác khiến nàng mất bình tĩnh. Đoàn Ngọc Thành khẽ hỏi: “Đừng nói dối! Có phải lời của Từ bang chủ nói là thật không?” Tân Na Á hai mắt tuôn đôi dòng lệ, hoang mang lắc đầu, nghẹn ngào nói: “Ta không biết!” Đoàn Ngọc Thành giật nảy mình, quay lại, vái dài Từ Tử Lăng rồi sau đó đứng thẳng lên nói: “Ngọc Thành sai rồi, không còn mặt mũi gì gặp Thiếu soái và các huynh đệ khác.” Nói xong xoay người đi băng qua giữa Hứa Khai Sơn và Tân Na Á, những bước đi vững chắc với quyết tâm một đi không trở lại, bước thẳng ra đường. Khi hắn sắp sửa biến mất trong tầm mắt của Từ Tử Lăng, Tân Na Á kêu lên một tiếng đau thương, tưởng như Hứa Khai Sơn không có ở đó, chuyển mình đuổi theo hướng Đọan Ngọc Thành. Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc xuất hiện sau Hứa Khai Sơn hai trượng như hai bóng ma, chặn đường rút lui của hắn. Ánh mắt Từ Tử Lăng chạm với ánh mắt của Hứa Khai Sơn, gã lạnh lùng bảo: “Ngày hôm nay bị mọi người phản lại, người thân chia lìa, Hứa huynh có cảm tưởng gì?” Hứa Khai Sơn ngửa mặt lên trời cười lớn, tấm khăn che đầu rách lộ ra bộ mặt thật, giơ ngón tay cái lên nói: “Hay lắm! Ta thừa nhận đêm nay đã thất bại hoàn toàn, bất quá các ngươi muốn giữa ta lại e rằng chưa đủ sức đâu, chỉ cần ta hôm nay không chết thì có ngày đội đất trở lại.” Nói xong câu cuối cùng đã lao vọt về phía trước, đấm thẳng một quyền vào mặt Từ Tử Lăng, luồng kình phong cùng với gió tuyết cuộn vào trong quán, nhất thời hàn khí thật lạnh càng làm cho đòn đánh lăng lệ và uy mãnh. Từ Tử Lăng cảm thấy quyền kình của hắn trở nên như một cây cột bằng khí bổ thẳng tới. Quyền này của Hứa Khai Sơn tòan lực xuất thủ, trong đòn ngưng tụ công lực cả đời của y, mới nhìn vẻ đơn giản trực tiếp, nhưng trong đó ẩn tàng vô số biến hoá theo sau, hiển lộ thần uy của kỳ công dị pháp Ngự Tận Vạn Pháp Căn Nguyên Trí Kinh. Với khả năng của Từ Tử Lăng mà cũng không dám tiếp thẳng đòn này, hai tay gã ôm lại, phát ra một luồng chân khí vòng tròn, bao lấy quyền kình của đối phương, lúc này gã nhích người sang trái nửa bước, vòng khí hoàn cuộn chặt quyền kình của đối phương như một sợi dây mềm mại vô hình rồi dẫn sang bên phải. Hứa Khai Sơn vốn muốn buộc Từ Tử Lăng tiếp chiêu này, rồi thoát ra cửa, sau đó sẽ phá vỡ nóc nhà, đột phá vòng vây mà đi. Nào ngờ chiêu thức ứng phó của Từ Tử Lăng ngoài sự dự liệu của hắn, hắn vội vàng triệt bỏ khí công, thâu mình thối lui, đang định phóng người vọt lên, Từ Tử Lăng không thay đổi chiêu thức, vòng khí chuyển thành Bảo Bình khí, nhắm thẳng vào ngực hắn đánh tới, nếu y phóng vọt người lên, đảm bảo sẽ trúng chiêu của Từ Tử Lăng, dù có thể đỡ đòn nhưng làm sao tránh được Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc lao ra cửa đuổi theo. Hứa Khai Sơn hiểu ra rằng Thủ Ấn Chân Ngôn đại pháp của Từ Tử Lăng đã đạt đến cảnh giới thu phát tùy tâm, tùy ý biến hóa, nhưng hối hận đã muộn, dẫu sao y cũng là một bậc đại tông sư, y không né tránh, song chưởng đẩy mạnh ra, đánh thẳng vào luồng Bảo Bình khí công chứa đựng chân khí tập trung của Từ Tử Lăng. Từ Tử Lăng đọc chân ngôn. “Lâm!” Hứa Khai Sơn rùng mình, “bùm” một tiếng vang lên, hai luồng khí công chạm vào nhau, khí kình lan tỏa, hai người bị chấn động, “phốc, phốc, phốc” hắn lùi lại ba bước. Từ Tử Lăng chỉ thối lui một bước, kình lưu cuồn cuộn trong quán. “Đuổi theo!” Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc một đao một kiếm đồng thời công kích, hai người biết hắn có ma công mạnh mẽ, nếu chỉ hơi sơ hở một chút thì hắn sẽ đột phá vòng vây mà đi, cho nên cả hai đều dốc hết toàn lực, không chút lưu tình. Từ Tử Lăng cách không điểm ra một chỉ, đánh vào nơi yếu hại trước ngực của hắn. Hứa Khai Sơn gầm lớn một tiếng, không khí xung quanh mình hắn như biến thành bức tường đồng vách sắt, chặn toàn bộ những chiêu số hiểm hóc của ba đại cao thủ từ ba góc đánh tới với những chiêu thế mạnh mẽ. Nhưng dẫu cho là những cao thủ như Tất Huyền, Ninh Đạo Kỳ trong tình huống này cũng bị lâm nguy, huống chi là một Hứa Khai Sơn đã bị nội thương. Tiếng nổ vang lên. Bức tường khí của Hứa Khai Sơn vỡ ra từng mảnh, nhưng đã thành công hóa giải một chỉ ấy của Từ Tử Lăng, đánh bật đao của Khả Đạt Chí, kiếm của Âm Hiển Hạc. “Keng!” Khả Đạt Chí bị đẩy lùi sang bên trái tra đao vào vỏ, hai mắt tỏa sáng nhìn Hứa Khai Sơn chằm chặp. Âm Hiển Hạc giơ ngang kiếm đứng bên phải, hai mắt hiện ra thần sắc bi phẫn rồi trở nên hiền hòa. Rồi càng lúc càng mờ. Trong khoảnh khắc này Từ Tử Lăng đối diện với Hứa Khai Sơn. Vẻ mặt Hứa Khai Sơn lầm lì, y đứng vững tựa như núi. Gió tuyết không ngừng thổi vào cửa sổ, bốn người trong quán đứng yên hệt như bốn pho tượng, thời gian như ngừng lặng. Tiếng ngâm nhỏ phát ra từ miệng của Hứa Khai Sơn, phá vỡ sự tĩnh lặng trong quán, chỉ nghe y niệm rằng: “Sơ tế vị hữu thiên địa, đãn thù minh ám, ám ký xâm minh, tư tình trì trục. Minh lai nhập ám, ủy chất thôi di. Thánh Giáo cố nhiên, tức vọng vi chân, thục cảm văn mệnh, cầu giải thoát duyên. Giáo hóa sự tất, chân vong quy căn, minh ký quy vu Đại Minh ám diệc quy vu tích ám. Nhị tông các phục, lưỡng giả giao quy.” Niệm xong bật cười ha hả, trở tay vỗ một chưởng lên trán đánh bốp một tiếng, tiếng xương cốt vỡ vụn, sau đó liền ngã xuống, “rầm” một tiếng vang tại đương trường, vậy là nhất đại ma quân đã tự sát lìa đời. o0o Từ Tử Lăng, Khả Đạt Chí và Âm Hiển Hạc chôn thây Hứa Khai Sơn trong rừng tuyết, tuyết vẫn không ngừng rơi, chỉ trong chớp mắt đã phủ trăng ngôi mộ, chẳng còn chút dấu vết gì. Khả Đạt Chí nói: “Theo lệ của chúng ta, lẽ ra phải phơi xác hắn ngoài đồng hoang làm mồi cho sói hoang. Cả đời hắn làm toàn chuyện xấu xa, chết đi ít nhất cũng làm việc có ích cho bầy sói!” Âm Hiển Hạc trầm giọng nói: “Chúng ta đi thôi!” Ba người xoay lưng bỏ đi, bước trên con đường cái quan tiến về Trường An, đạp tuyết đi tới. Khả Đạt Chí nói: “Vào thành có cần ta giúp đỡ không? Bây giờ thành môn Trường An đang rất căng thẳng.” Từ Tử Lăng lắc đầu nói: “Cứ để bọn ta tự nghĩ cách, tốt nhất đừng để người khác biết bọn ta có quan hệ gì với ngươi, điều đó đối với ngươi chỉ có hại thôi.” Khả Đạt Chí im lặng hồi lâu, thở dài: “Nếu có thể, ta mong Tử Lăng hủy bỏ chuyến đi đến Trường An.” Từ Tử Lăng trong lòng chấn động, chắc chắn Khả Đạt Chí là kẻ chủ chốt đối phó với Lý Thế Dân, cho nên biết toàn bộ kế hoạch ám sát Lý Thế Dân, bởi vậy không muốn gã đến Trường An. Không thể tưởng được sắp phải trở thành đối thủ của Khả Đạt Chí, trong lòng gã thấy áy náy, nhưng không có sự lựa chọn nào khác. Khả Đạt Chí đương nhiên sẽ không hoài nghi hắn trong tình huống Khấu Trọng và Lý Thế Dân không đội trời chung mà trong lòng vẫn có ý giúp Lý Thế Dân, nhưng gã lại không đành giấu ý nghĩ thật sự của mình, đối xử như thế với Khả Đạt Chí khiến gã thấy áy náy, nói không ra lời. Lánh qua một bên, Âm Hiển Hạc nói: “Tử Lăng đến Trường An với ta vì muốn dò hỏi tung tích của xá muội.” Khả Đạt Chí nhẹ nhõm nói: “Sao không nói sớm, để ta nghi thần nghi quỷ.” Từ Tử Lăng càng thấy bất an, lại chẳng biết nói gì nữa. Khả Đạt Chí mỉm cười: “Mong Tử Lăng gửi lời thăm của ta đến Thiếu soái, nói cho hắn hay rằng cho đến giờ phút này Khả Đạt Chí vẫn coi hắn là bằng hữu tốt nhất. Khả Đạt Chí phải đi trước một bước, hy vọng tại Trường An không đụng đầu cùng Tử Lăng, bởi vì không biết lúc đó mọi người là địch hay bạn. Ta đi đây!” Nói xong không quay đầu lại lướt thẳng về phía trước, khuất dạng trong gió tuyết. o0o Mặt trời dần khuất núi, để lại ánh nắng yếu ớt trong trời chiều, Tống Khuyết và Khấu Trọng đứng trước sơn môn của Tịnh Niệm Thiền Viện. Tuyết đã ngừng rơi từ khi họ bỏ bè lên bộ, sương trắng phủ khắp mặt đất hệt như nối trời và đất lại với nhau, cây cối bên đường như mặc áo tuyết, dưới đất tuyết lên đến tận hông, khiến người bình thường nửa bước cũng khó đi. Khấu Trọng đưa mắt nhìn quanh, rừng tuyết mênh mông, khắp nơi đều là băng tuyết, ánh nắng chiều như lấp lánh trong mắt gã, biến hóa vô cùng, đẹp đến khiến người ta phải nín thở. Từ khi tĩnh tọa tỉnh dậy tới giờ, Tống Khuyết chưa nói qua nửa lời, thần thái xem ra rất nhàn nhã, nhưng Khấu Trọng thì vẫn hoài nghi ông vẫn còn nhớ đến Phàn Thanh Huệ không ngớt, không khỏi vì ông lo lắng phi thường. Tống Khuyết bắt tay sau lưng đi qua lớp cửa thứ nhất có tấm bảng đề “Tịnh Niệm Thiền Viện” bước lên bậc đá dẫn lên đỉnh núi cheo leo. “Boong! Boong! Boong!” Tiếng chuông du dương từ trên núi vọng đến, tựa như biết rằng Tống Khuyết đại giá quang lâm. Khấu Trọng đi theo sau Tống Khuyết, ngửa cổ nhìn tháp Phật và lầu chuông ẩn hiện trên núi tuyết, liền nhớ đến tình cảnh năm xưa cùng Từ Tử Lăng và Bạt Phong Hàn đến lấy cắp Hòa Thị Bích, cảnh tượng ấy vẫn in sâu trong lòng gã như vừa mới xảy ra, thế mà nay việc người việc đời đã thay đổi mấy phen. Lúc ấy tranh đấu ngươi sống ta chết, thiên hạ ngắm nghía những cái mà Vương Thế Sung cùng Lý Mật đã cùng dựng nên. Lớp cửa thứ hai hiện ra trước mắt. Tống Khuyết ngừng bước, đọc đôi liễn khắc trên hai cây trụ trước phật đường: “Trống chiều chuông sớm đánh thức khách danh lợi thế gian, Tiếng kinh hiệu Phật gọi người mê trong biển khổ quay về. Hay lắm! Hay lắm! Nhưng thân đã xa vào biển khổ, người ngòai cuộc cũng như người trong cuộc ai có thể may mắn tránh khỏi? Đã là chúng sinh thì đều khổ như nhau!” Trong lòng Khấu Trọng chấn động, dường như Tống Khuyết đang có tâm sự, là ông vẫn chưa thóat khỏi biển khổ, vẫn còn đau lòng vì Phàn Thanh Huệ, bởi vậy trận chiến này thắng hay thua không nói cũng biết. Lần đầu gã cảm thấy bản thân mình phát sinh cảm giác không ưa Phàn Thanh Huệ, việc này cũng giống như nếu Sư Phi Huyên bảo Từ Tử Lăng đi quyết chiến với người khác, nỗi khó chịu trong lòng gã không khó tưởng tượng. Tống Khuyết lại bước lên bậc đá, đợi Khấu Trọng đuổi đến bên mình, ông vừa đi vừa mỉm cười nói: “Ta đã một phen khổ công nghiên cứu tư tưởng của hai nhà Phật Đạo, cảnh giới tối cao nhất của Phật môn là niết bàn, của Đạo Gia là bạch nhật phi thăng. Phật môn trọng tâm, lập địa thành Phật; Đạo gia luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, luyện thư hợp đạo, xem thân mình là chiếc bè vượt qua biển khổ, bị những kẻ không hiểu ý nghĩa này trong Phật môn mỉa mai là ma giữ xác. Trên thực tế bạch nhật phi thăng trong Đạo gia và tích thân thành Phật của Phật môn tựa như khác nhau mà lại là một. Trong quá trình tu đạo của Phật môn, tâm và thân đều quan trọng, Ninh Đạo Kỳ tuy là đại diện của Đạo gia, nhưng thực sự đã nắm được sở trường của hai nhà Phật Đạo cho nên Tán thủ bát quái của ông ta xem trọng đạo ý thiền cảnh, vượt hơn hẳn các loại võ học ở cõi tục.” Khấu Trọng đã từng giao thủ với Ninh Đạo Kỳ, gật đầu đồng ý nói: “Chữ nào của Phiệt chủ cũng chứa huyền cơ, năm xưa tiểu tử đã từng giao phong với ông ta, cả quá trình cứ như trong một cơn mộng, nơi nào cũng gặp được đạo ý thiền cảnh, thật sự rất tuyệt vời.” Tống Khuyết đến khoảng sân rộng trước thiền viện, tòa đại điện như dát bạc đứng sừng sững trước mắt, chẳng thấy bóng người, tuyết phủ kín mặt đất, nhưng chẳng có dấu chân. Ông từ tốn nói: “Đối với Ninh Đạo Kỳ nhục thân rất quan trọng, là bằng chứng duy nhất chứng minh ông ta thành tiên thành Phật, nếu nhục thân bị phá, quá trình luân hồi chuyển thế phải bắt đầu lại từ đầu, cho nên trận chiến này ông ta nhất định sẽ dốc hết toàn lực, không hề do dự. Tiểu Trọng có hiểu ý ta không?” Khấu Trọng cười khổ nói: “Tiểu tử đã hiểu!” Tống Khuyết điềm đạm nói: “Cho nên chúng ta một khi động thủ giao phong, chỉ khi nào một bên chết đi thì cuộc chiến mới kết thúc, hơn nữa cần phải trong lòng không được lo nghĩ gì, phải dồn đối phương vào chỗ chết. Nhưng một lòng muốn giết chết đối phương thật sự là điều tệ hại trong võ đạo, cần phải có ý niệm vô tử vô sinh, vô thắng vô bại, đó là cảnh giới cần phải đạt tới, tột đỉnh của đạo, các tình huống trong đó vi diệu lạ thường, dẫu cho ta hay Ninh Đạo Kỳ cũng khó đoán được tình hình thực sự.” Khấu Trọng ngạc nhiên nói: “Như thế há chẳng phải quá mâu thuẫn hay sao?” Tống Khuyết ngửa mặt cười rằng: “Có mâu thuẫn gì đâu, chả lẽ ngươi quên rằng ngoài xá đao còn có vật gì khác sao? Nếu có sinh tử thắng bại, trong lòng có vật, chi bằng ta lập tức xuống núi để khỏi mất mặt.” Khấu Trọng giật mình nói: “Tiểu tử hiểu rồi!” Ngay lúc này, hắn hiểu rõ không còn nghi ngờ gì nữa, cảm nhận được Tống Khuyết đã vứt bỏ hết tất cả để lập địa thành Phật, đi vào cõi xá đao, vào cảnh giới chí cao. Tống Khuyết vui vẻ nói: “Bây giờ Thiếu soái đã nhận được hết chân truyền Thiên Đao tâm pháp của ta, ta sẽ nói ra chỗ Thiếu soái chưa bằng ta, sau khi đắc đao thì phải vong đao, đó chính là Tống Khuyết của bây giờ.” Khấu Trọng hỏi lại: “Vong đao?” Tống Khuyết cao giọng nói: “Tống Khuyết ở đây, mời Đạo Kỳ huynh chỉ giáo!” Thanh âm truyền ra xa, chấn động đến từng ngóc ngách của tòa sơn tự. o0o Gió lạnh thổi vù vù, thành Trường An hùng vĩ chỉ còn lờ mờ trong gió tuyết cuồng nộ, tuyết rơi xuống như hàng ngàn hàng vạn cây kim châm, phương hướng vô định, lướt theo gió rơi về bên tây, lúc rơi về bên đông, khiến người ta khó mở mắt. Từ Tử Lăng và Âm Hiển Hạc đứng trên ngọn núi, nhìn Trường An ở xa xa, mỗi người đều theo đuổi ý nghĩ riêng. Chuyện đầu tiên sau khi vào thành đương nhiên là đi tìm Kỷ Thiến để hỏi rõ ràng, tiếp theo Từ Tử Lăng sẽ gặp mặt Lý Thế Dân thông qua Lý Tịnh, hậu quả ra sao thì không thể nào đoán được. Đã đến nước này, gã cũng không biết Lý Thế Dân có còn xem gã là bạn hay không, liệu hắn có tin tưởng vào lời gã nói hoặc nghe theo lời khuyên của hắn hay không. Giọng nói của Âm Hiển Hạc vang lên bên tai gã, tạm át hẳn tiếng gió tuyết rít gào: “Trận gió tuyết lớn này có lợi cho chúng ta lẻn vào Trường An, chúng ta sẽ vào thành bằng cách nào?” Từ Tử Lăng nói: “Có gió tuyết hay không cũng chẳng sao, bởi vì chúng ta sẽ vào thành bằng địa đạo.” Âm Hiển Hạc ngạc nhiên, Từ Tử Lăng tuy đã từng nhắc đến con đường bí mật vào thành, nhưng chưa hề tiết lộ chi tiết. Từ Tử Lăng giải thích: “Dương Công Bảo Khố chẳng những trong kho có kho, mà còn có thật và giả, kho giả đã bị Lý Uyên phát hiện, kho thật chỉ có chúng ta biết, địa đạo nối liền với kho thật có thể dẫn ra ngoài thành, nằm trong chỗ um tùm của khu rừng tuyết sau lưng chúng ta đây.” Âm Hiển Hạc giật mình nói: “Chả lẽ các người đi vòng Hán Trung, thì ra là muốn tránh Lạc Dương đánh thẳng đến Trường An.”, rồi cảm động nói: “Tử Lăng xem ta là hảo bằng hữu, chỉ vì muốn ta vào thành an toàn mà không ngại tiết lộ bí mật to lớn bằng trời này.” Từ Tử Lăng mỉm cười: “Chúng ta đều là huynh đệ, lẽ nào không tin ngươi, huống chi tác dụng của bảo khố đã không còn, Khấu Trọng muốn được thiên hạ thì trước tiên phải đạp bằng phương Nam, đánh thẳng xuống Lạc Dương, làm gì đã có cơ hội nhập quan.” Âm Hiển Hạc nói: “Tử Lăng đang đợi gì thế?” Từ Tử Lăng lãnh đạm nói: “Ta đang đợi thời khắc Kỷ Thiến đến đổ trường, lúc đó chỉ cần chúng ta đi lòng vòng Minh Đường Oa, hoặc Lục Phúc đổ quán là sẽ gặp được nàng.” Âm Hiển Hạc nói: “Thì ra nàng là người mê cờ bạc.” Từ Tử Lăng lắc đầu: “Nàng mê cờ bạc là vì đối phó với Trì Sanh Xuân, đến bây giờ ta vẫn không hiểu làm sao nàng biết Trì Sanh Xuân là người của Hương gia, đợi lát nữa ta sẽ hỏi rõ ràng.” Âm Hiển Hạc nói: “Tử Lăng định xuất hiện ở Trường An với thân phận gì?” Từ Tử Lăng nói: “Ta định dùng thân phận thật, ngươi cảm thấy thế nào? Dẫu sao ở Trường An cũng ít người biết thân phận thật của ta. Nhưng muốn Kỷ Thiến tin lời chúng ta thật không dễ. Có thể vì trải nghiệm đáng sợ của nàng khi còn nhỏ, nàng rất e dè người lạ.” Âm Hiển Hạc nói: “Đối với nàng, Tử Lăng là người lạ sao?” Từ Tử Lăng cười khổ: “Cũng rất khó nói! Nhưng phải xem tâm trạng của nàng.” Âm Hiển Hạc lo lắng nói: “Vậy thì làm sao?” Từ Tử Lăng nói: “Trước tiên chúng ta phải tìm cách cho nàng ngồi xuống nói chuyện, sau đó đi thẳng vào đề, xem thử phản ứng của nàng rồi tùy cơ ứng biến. Ôi! Không giấu gì Hiển Hạc, đây là cách tốt nhất mà ta có thể nghĩ ra.” Âm Hiển Hạc hai mắt lộ vẻ kiên định, nói: “Cứ thế mà làm!” Từ Tử Lăng lo ngại nói: “Không còn sợ sao?” Âm Hiển Hạc lắc đầu, nói như chém đinh chặt sắt: “Đúng thế! Trong lòng ta không còn sợ chút gì cả, dù điều nàng nói ra có đáng sợ đến mức nào, ta cũng sẽ dũng cảm đối mặt, huống chi được mất vẫn chưa biết kia mà.” Từ Tử Lăng nói: “Có lẽ chuyện treo thưởng tìm người đã có hiệu quả, Tiểu Kỷ đang đợi huynh trở về Bành Lương đoàn tụ.” Âm Hiển Hạc thẫn thờ nói: “Bây giờ ta chỉ nghĩ đến Kỷ Thiến.” Từ Tử Lăng vỗ vai hắn: “Vậy chúng ta lập tức đi gặp Kỷ Thiến.” Hai người xoay lưng lẩn vào rừng tuyết.
Cập nhật thông tin chi tiết về 12 Cung Hoàng Đạo Là Loài Khủng Long Nào Đã Oanh Tạc Ở Thời Cổ Đại? trên website Getset.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!